Lâu nay, khi nói về thơ ông. người ta hay nghĩ nhiều đến chất triết lý, chất trí tuệ, ít người chú ý đến chất trữ tình của ông. Trong rừng thơ trí tuệ ấy, yếu tố trữ tình trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đem lại cho chúng ta cảm giác tươi mát như lạc giữa đại ngàn
Cảm nhận về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bình Khiêm. Nguyễn Bình Khiêm là một tác gia vô cùng nổi tiếng của nền văn chương thời kỳ trung đại của nước ta. Không chỉ tài thơ, hay chữ mà ông còn là người thông minh, giàu bản lĩnh. Sự nghiệp sáng tác của ông không quá đồ
Trên con đường trải đầy rơm rạ sau vụ gặt và nồng đượm mùi thuốc lào Tiên Lãng, Vĩnh Bảo nổi tiếng khắp nước, cũng có rất nhiều người như chúng tôi, tìm về Khu di tích, thắp nén hương thơm, tưởng nhớ tới Nguyễn Bỉnh Khiêm, một danh nhân văn hoá, một nhà hiền triết mà sự nghiệp và tên tuổi của ông đã lưu danh mãi cùng đất nước.
Chi tiết Bán đất mặt tiền nguyễn bỉnh khiêm ngang 15 m - beehoney lâm. Bán lô đất 100% thổ cư mặt tiền Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngang 15 m dài 30 m; phù hợp là văn phòng làm việc, khách sạn, CHDV, biệt thự phố
Bán tòa nhà văn phòng mặt tiền Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đakao, Quận 1. - Có diện tích 12x27m = 324m2 đất, kết cấu: 2 hầm, 1 trệt, 1 lửng, 7 lầu , sân thượng. Vị trí đường Nguyễn Bỉnh Khiêm lưu thông theo 1 chiều và 2 chiều bắt đầu từ đường Nguyễn Hữu Cảnh đến đường Vòng Xoay Điện Biên Phủ dài khoảng 1200 m, lộ giới 20m. Lề đường 3m.
Mặt tiền Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phường Đa Kao, Quận 1.- Vị trí: Gần vòng xoay Điện Biên Phủ, Gem Center, Đài truyền hình TPHCM, đoạn 2 chiều, vị Hôm qua 5 Mặt tiền Nguyễn Bỉnh Khiêm (4 tầng; 3,3mx15m). Giá 22,5 tỷ 22.5 tỷ · 468.8 triệu/m² · 48 m² · Quận 1, Hồ Chí Minh - Bán nhà Mặt tiền đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Đa Kao, Quận 1.
DVLMrdG. Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585 huý là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, Hải Dương, nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Xuất thân từ một gia đình trí thức Nho học, cha là Nguyễn Văn Định có văn tài, học hạnh. Mẹ là Nhữ Thị Thục, con thượng thư Nhữ Văn Lan, thông tuệ, giỏi văn chương, am tường lý số. Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh, hiếu học, từ nhỏ đã được mẹ đem thơ quốc âm và kinh truyện ra dạy. Cùng chúng tôi điểm qua những bài thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm hay nhất trong bộ sưu tập sáng tác thơ bạn nhé! Chức phận làm con Phận làm con phải thông đạo hiếu, Phận làm dân phải hiểu chữ trung. Trên ra lệnh, dưới phục tùng, Cha làm việc tốt, con cùng làm theo. Của cải nhiều dùng lâu cũng hết, Chữ hiếu trung hưởng mãi vô cùng. Bàn mưu tư lợi thì đừng, Bàn điều chân chính, nên cùng tham gia. Làm tốt chớ ba hoa kể lể, Hoa sớm nở, thì hoa dễ sớm tàn. Cẩn thận đáng giá ngàn vàng, Phải suy nghĩ kỹ hãy làm mới hay. Người tốt hay xắn tay làm phúc, Giúp ai không lợi dụng người ta. Người biết lỗi, sửa thì tha, Trị người có tội, chớ mà quá nghiêm. Dạy điều thiện, đừng nên tham quá, Để người học có khả năng theo Khoan hòa sẽ được tin yêu, Siêng năng cần mẫn ắt nhiều thành công. Nói thận trọng thì không sợ lỗi, Làm thận trọng đỡ hối về sau. Thế lực dù mạnh đến đâu, Nếu đem dùng hết, ắt sau hại mình. Hoặc cậy thế tạo thành phúc lộc, Hẳn rằng sau cũng chẳng ra gì. Cứ đường chính đạo mà đi, Hiếu, Trung, Nhân, Nghĩa nghĩ suy mà làm. Nói về giàu sang Bài thứ ba bàn sự giàu sang Giàu với sang ai chả ước mong, Nhưng giàu sang chẳng chính công, Là phi đạo đức, hẳn không lâu bền. Ai sống kẻ nghèo hèn cũng chán, Nhưng bất lương đuổi hẳn chẳng đi. No cơm hẩm thiết gì thịt cá, Vui cảnh nghèo, quên cả giàu sang. Người quyền quý, lắm bạc vàng, Lấy gương xử với họ hàng mà soi. Ở phải đạo, nhiều người giúp đỡ, Sống bất lương, ít chỗ thân tình. Thà nghèo giữ được thơm danh, Hơn giàu lắm chuyện phẩm bình, cười chê. Bọ ngựa rình con ve định bắt, Chim sẻ rình bọ sát phía sau… Tiếng tăm lừng lẫy càng nhiều, Tránh xa kẻ xấu sinh điều ghét ghen. Nhiều tài cũng lắm phen khốn khổ, Nhiều công là cái hố suy bì. Nhớ rằng đừng cậy, chẳng khoe, Phải luôn thận trọng chớ hề phô trương. Nói với bạn việc ngay ý thẳng, Phải người tham họ chẳng nghe đâu. Nói với quan chuyện thanh cao, Phải quan tham nhũng hẳn sau nó trù. Đại nghĩa Bài thứ tư nêu câu Đại nghĩa Dạy cho người ta biết để khuyên nhau. Trung với nước đặt lên hàng đầu, Đạo cha con được xếp vào đại luân. Trai tài biết thương dân, thủ tiết, Gái kiên trinh phải biết giữ mình. Người tài nước được thơm danh, Vợ giỏi như được ngọc lành trời cho. Gái bất chính thì cho chẳng lấy, Trai có tài mắc bẫy thì ngu. Bất trung dễ mắc mưu thù, Minh quân như mù mới lấy làm quan. Con dân thường chăm ngoan học giỏi, Cũng có ngày tiến tới làm quan, Con quan chẳng chịu học hành, Suốt đời cũng chỉ làm anh dân thường. Làm quan chức, thấm ơn chế độ, Có nuôi con, mới nhớ được công cha. Muốn lòng ngay thẳng thật thà, Rèn luyện ý trí phải là đầu tiên. Chí thiện Bài thứ năm Tâm linh chí thiện Mong tốt lành mọi chuyện công tư. Rất vui là đọc thi thư, Việc đời mệt nhất ấy là dậy con. Cha nghiêm phụ răn con hiếu thảo, Mẹ nhân từ dạy bảo gái ngoan. Nhà lành hương toả chi lan, Ở lâu chẳng thấy mùi thơm ngạt ngào. Gần kẻ ác như vào chợ cá, Buộc người ta quen cả mùi tanh. Có nết tốt chẳng kiêu căng, Đức dày thêm mãi tạo thành thói quen. Giàu chớ kiêu chớ nên ích kỷ, Sang cũng đừng xa sỉ, hợm đời. Việc làm muốn tốt tuyệt vời, Ba lần căn nhắc hẳn hoi mới làm. Suy tính kỹ bao hàm hai ý Việc chung riêng thấu lý đạt tình. Từ xưa vẫn sợ, vẫn kinh, Lòng người nham hiểm nảy sinh khó lường Kẻ tiểu nhân mưu đồ xảo quyệt, Thích mưu đồ tiêu diệt người ngay. Cho dù hiểm độc, quắt quay, Không qua lẽ phải, chẳng xoay đạo trời. Kẻ bất nhân nhất thời nổi tiếng, Không người thì trời diệt chẳng tha Tự nhiên được của đầy nhà, Một là lộc lớn, hai là họa to Có lúc bại, trời cho thắng cuộc, Hoặc đang nghèo bỗng được giầu sang. Thế gian yêu lắm ghét nhiều, Khen nhiều chê lắm, bao điều bất an. Mừng nhiều lo lắm chẳng oan, Vinh nhiều nhục lắm, thế gian thường tình. Đừng cậy thế mà sinh kiêu ngạo, Chớ cậy quyền để tạo lợi riêng. Làm một điều thiện cũng nên, Trừ một việc ác quả nhiên rất cần. Sinh sự thì bận tâm mệt sức, Nên nhún nhường tạo Đức thì hơn. Việc chuẩn bị kỹ hãy làm, Việc không chuẩn bị chớ tham làm bừa. Bao kinh nghiệm từ xưa đã thấy, Sai một ly đi mấy dặm đường. Quả quyết được việc lẽ thường, Đắn đo hỏng việc, ấy gương ở đời. Sắc chẳng mê người, chính người mê sắc, Rượu chẳng say người, chỉ tại người say. Đừng nên vui quá nói chầy, Chớ vì sướng quá vung tay làm liều. Quý chim phượng bởi yêu lông cánh, Trọng người hiền ở cách nói năng. Gặp khi hoạn nạn khó khăn, Hành vi tế nhị, nói năng lựa lời. Mười mắt rồng và mười tay trỏ Thật công minh sáng tỏ sâu xa Quả đào người quý tặng ta, Ta lấy quả mận đem ra biếu người. Cung nỏ lạ chớ cầm mà khốn, Ngựa chẳng quen, chớ cưỡi mà ngã. Qua ruộng dưa chớ sửa giầy, Dưới gốc mận chớ giơ tay sửa đầu. Coi chừng chốn cửa cao nhà rộng, Đừng cậy rằng tông tộc mình to. Họ to lắm chuyện tò mò, Cửa cao thường giở những trò kiêu căng. Người tốt, chơi nói năng chân thật, Kẻ xấu, chơi như mật chết ruồi. Người tốt bền chí thức thời, Khó khăn thuận lợi vẫn nuôi chí bền. Kẻ xấu thường van xin lúc khó, Được việc rồi thì nó quên luôn. Mới hay muôn sự vui buồn Những điều chí thiện phải luôn ghi lòng. Thiện ác Bài thứ sáu Hai dòng Thiện–Ác Là hai điều thật khác nhau xa Trăm năm trong cõi người ta, Dở, hay báo ứng, thật là công minh. Báo ứng có khi nhanh, khi chậm, Nhà tối, nghèo nào dám coi khinh. Việc làm phúc nếu vô tình, Như tuồng lánh nạn, đáng khinh khỏi bàn. Kẻ bạo ngược mưu toan việc xấu, Bịp được người sao giấu được trời Vầng dương mọc lặn luân hồi, Mặt trăng tròn khuyết, đầy rồi lại cong. Tình người cũng tụ, xong lại tán, Buồn lại vui, vui chán lại buồn. Cỏ hoa sớm nở tối tàn, Cây tùng cây bách muôn ngàn sức xuân. Mỗi ngày xét bản thân ba lượt Đêm nhiều người sẽ biết cho ta. Số trời vốn sẵn định ra, Giàu sang có mệnh, vinh hoa có ngày. Hoa nở muộn do cây cằn cỗi, Đời chưa vui, bởi nỗi khổ nghèo. Giàu sang, khách đến thăm nhiều, Nghèo hèn, thân thích ra chiều cách ly. Lúc dư dật, phòng khi túng thiếu, Khi sướng vui, phải liệu khi buồn. Một nhà nề nếp cương thường, Cha từ, con thảo, đẹp gương vợ chồng. Tình anh em thuận lòng nhân ái, Nghĩa bạn bè qua lại giúp nhau. Người con phòng lúc ốm đau. Chứa thóc phòng đói là câu chí tình. Giúp người gặp cảnh tình nguy cấp, Hoặc cứu người trong lúc gian nguy. Có mới đừng nới cũ đi, Tiếng nói một nẻo, bụng suy một đằng. Chớ có lành bắt vành ra méo, Đừng làm cho bé xé ra to. Một chút tà tất quanh co, Người ta sẽ tỏ các trò quắt quay. Lời không cánh mà bay khắp ngả, Đạo đức cao thì gốc cả, rễ sâu. Ngọc vết mài chẳng khó đâu, Nói sai, biết sửa bao lâu mới lành. Lời đã nói bay nhanh hơn gió, Bốn ngựa phi cũng khó đuổi theo. Khinh người là thói tự kiêu, Người ta khinh lại, đời nào chịu thua. Tự khen mình mà chê người hỏng, Thì người ta có trọng gì mình. Hãy suy Thiện–Ác, Nhục–Vinh Ở sao có nghĩa có tình thì hơn. Việc gia thất muốn yên mọi sự Mỗi người nên biết xử phận mình Đừng mưu lấy của bất minh Chớ ghen ghét với người mình còn thua. Vợ người ta chớ đùa cợt nhả, Đừng gièm pha quấy phá hôn nhân. Một năm có một mùa xuân, Mỗi ngày chỉ một giờ dần đầu tiên. Cháy nhà có nước liền dễ chữa, Láng giềng cần giúp đỡ lẫn nhau. Tình đời lắm chuyện thương đau, Anh em để mẩt lòng nhau thật buồn. Người xưa bảo thói quen thường vẫn vậy, Đàn bà thì khó dạy khó chiều. Quân tử phép chẳng cần theo, Tiểu nhân chẳng chấp những điều lễ nghi. Thấy ai có vật gì quý giá, Chớ lân la tán gạ, nài xin. Công việc nào quá khó khăn, Đừng buộc người khác phải lăn vào làm. Muốn trách người, phải xem mình trước. Nếu tha mình, tha được người ta. Đứa bất chính, kẻ gian tà, Kết thân với chúng dễ mà tàn thân. Không minh bạch miếng ăn lời nói, Là nguyên nhân cái tội hại mình. Lúc trẻ lao động nhiệt tình, Khi già cuộc sống gia đình thảnh thơi. Trẻ mà lêu lổng chơi bời, Về già chắc hẳn cuộc đời gian truân. Của cho con đâu cần vàng ngọc Mà cho con được học được hành. Cho muôn khoảnh ruộng tốt xanh, Chẳng bằng cho chúng nghề lành trong tay. Mộng làm giầu thường hay thất đức, Làm điều nhân khó được giầu sang. Thuốc hay khó chữa bệnh oan, Của nhặt được khó mở mang giầu bền. Bất nghĩa mà trở nên phú quý, Như mây bay bọt khí nổi trôi. Phúc do trong sạch lòng người, Đức từ kiên nhẫn sống đời yêu thương. Tham lam lắm tất vương tai họa, Sống bất nhân tội chả thoát đâu. Tiểu nhân chẳng giúp ai đâu, Bởi trong lòng họ, như đầu mũi kim. Chỉ gai góc rắp tìm mưu kế, Cốt hại người để mong lợi mình. Người quân tử có bất bình, Liệu mà xa lánh, kẻo sinh hận thù. Tình người khác chi tờ giấy trắng, Như cuộc cờ vốn chẳng giống nhau. Khéo mà ứng xử với nhau, Đừng làm ai đó phải chau đôi mày, Chớ mạt sát day tay mắm miệng, Để người ta phải nghiến hàm răng. Ngựa gầy nên kém chạy hăng, Người không hồ hởi phải chăng vì nghèo. Sẵn tiền, rượu thì nhiều bạn đấy, Lúc lâm nguy nào thấy một ai. Luật trời báo ứng chẳng sai, Không trước mắt, cung lâu dài chứng minh. Tích thiện Bài thứ bẩy khuyên luôn tích thiện, Chứa điều lành như mặt trời lên. Rất vô tư, rất tự nhiên, Sáng soi muôn nẻo chẳng phiền đến ai. Chứa điều ác là tai họa đấy, Lửa trên đầu nào thấy mà lo. Chuyện ác dù chẳng nói to, Trên trời rung động tự hồ sấm vang. Việc mờ ám tưởng không ai biết, Nhưng mắt thần như điện sáng soi. Giầu sang đúng phận thì thôi, Nghèo hèn xử sự đúng môi trường nghèo. Suy từ ta ra nhiều người khác, Khoe điều lành, điều ác giấu đi. Thấy ai làm ác điều gì, Khéo can ngăn, hoặc nghoảnh đi chớ nhìn. Chuyện người khác không đem đàm tiếu, Mặc người ta, mạnh, yếu, giở, hay. Nói nhiều nghe cũng chán chầy, Khuyên nhiều sinh oán, bấy nay lẽ thường Khi yêu cũng nên lường lúc ghét, Lúc ghét nên nhớ đến khi yêu. Việc làm, lời nói, ít nhiều, Phải nên hướng thiện, phải theo phận mình. An phận Giữ yên phận là bài thứ tám Đừng để người đụng chạm đến ta Biết lo tính, biết phòng xa, Khoan dung ngay thẳng hẳn là sống lâu. Nước chân chính, lòng trời cũng thuận, Quan thanh liêm dân hẳn yên lòng Vợ hiền là phúc nhà chồng, Các con hiếu thảo thì lòng cha yên. Dẫu có tài giỏi chớ nên khoe khoác, Nhiễu sự sao bằng được an nhàn. Bốn mùa ấm lạnh xuềnh xoàng, Nói năng thận trọng rõ ràng được yên. Của dễ được tất nhiên dễ mất, Được vất vả thì mất khó khăn. Làm thong thả việc chắc ăn Việc đời muôn sự khó khăn ban đầu. Người xưa nói những câu triết lý Vào núi bắt hổ dễ như chơi, Còn khi mở miệng dạy người, Khó khăn nhiều lắm, liệu lời đắn đo. Quân tử cần ăn no uống đủ, Không cầu kỳ cốt giữ bình yên. Trò tìm thầy học dễ tìm, Thầy tìm trò tựa mò kim đáy hồ. Việc chia chác chẳng lo ít ỏi, Chỉ đáng lo cái tội không đều. Không lo hoàn cảnh túng nghèo, Chỉ lo xã hội nhiều điều bất công. Quá nham hiểm bởi lòng tham lắm. Quá nhẫn tâm lòng hẳn quá tàn. Đại đạo Giữ đại đạo là bài thứ chín, Lấy chữ “Trung” chữ “Tín” làm đầu. Người quân tử đạo đức cao, Không kiêu thái, giữ trước sau chan hòa. Khi cần giúp người ta việc gấp, Chẳng chọn ngày, đừng bấm ngón tay. Người được ta cũng mừng thay, Người đau, thông cảm đắng cay cho người. Nói thao thao ngàn lời tươm tất, Cũng không bằng việc thật đã làm. Kiếm lời chê trách nhân gian, Chính là chuốc lấy mối oan hại mình. Ta giúp người chân tình độ lượng, Là góp điều làm phước đáng tin. Trăm nghe không bằng một nhìn, Một việc thực tế hơn nghìn lời suông. Việc trời đất cũng thường thay đổi, Sáng gió mưa, chiều đã đẹp trời. Giống như cuộc sống một con người Sáng chiều, may rủi đầy vơi chuyển vần. Có việc đối với ta như thế Nhưng với người đâu rễ giống ta Khi lời nói trái phát ra, Tất nhiên cái họa cũng sà vào theo. Của phi nghĩa đưa vào cửa trước, Nó cũng tìm đường bước lối sau. Đừng làm những chuyện không đâu Chớ tham của lạ để sau bận lòng Việc đừng quá lao tậm cật lực, Nên đắn đo vừa sức thì làm, Không lười biếng chẳng tham lam Học điều Đại đạo – để làm thực tâm. Học vấn Bài mười lăm răn đường học hỏi. Có tư duy mạnh giỏi hơn người. Trước là đẹp đạo đất trời, Sau là xây dựng tình người đẹp hơn. Hiếu với cha thời con hiếu lại, Kính trọng người người lại trọng ta. Chớ tin những thuyết tà ma, Nó làm chìm đắm xấu xa lòng người. Người xưa bảo tiền tài – phấn đất, Nghĩa nhân kia mới thật là ngàn vàng. Đường dài thử sức gian nan, Sống lâu mới biết ruột gan tình người. Biết giữ phận thì đời nhàn hạ, Không gian tham tai họa khó vào. Vận đen vàng hóa ra thau, Vận đỏ sắt cũng ra màu vàng tươi. Rượu trắng nhuốn đỏ mặt người Bạc vàng dễ nhuộm lòng người tối đen. Nghèo giữa chợ ai thèm thăm hỏi, Giàu trên rừng có khối người thương. Vẽ hổ khó vẽ bộ xương, Biết người biết mặt khó lường lòng ai. Không đáng sợ sức hai con hổ, Chỉ sợ người ăn ở hai mang Sống đại lượng phúc huy hoàng. Mưu sâu tai họa ắt càng thêm sâu. Vợ chồng hiệp sức nhau bàn bạc, Có tiền mua nhiều lạng vàng dòng. Vợ chồng ăn ở khác lòng Có tiền đâu dễ sắm cùng cái kim Trị nhà như cầm cương ngựa dữ, Trị nước như dạo thử cung đàn. Cho nên học hiểu và làm, Lẽ trời với lẽ dân gian hài hòa, Muốn xây phú quý vinh hoa, Cái nền học vấn phải là đâu tiên. Tu đức Bài mười sáu thường xuyên tu đức, Phải chuyên tâm nỗ lực hàng ngày. Học rồi thực tế làm ngay, Rút ra kinh nghiệm dở hay sự tình. Tu đức tốt tướng sinh ra tướng, Con thảo hiền sinh được cháu ngoan. Nhà nghèo nhờ vợ đảm đang, Nước loạn cầu tướng giỏi giang, trung thành. Âm dương hòa không sinh lụt bão, Vợ chồng hòa thì đạo nhà nên. Tránh điều nghi kỵ hờn ghen, Đàn bà tiếp khách phải nên nhớ rằng Cử chỉ đẹp, nói nhẹ nhàng, Khi đưa tiễn khách xin đừng quá chân. Bốn đức tính Công, Dung, Ngôn, Hạnh, Người đàn bà gánh nặng lo toan. Đừng kiêu sa, chớ lăng loàn, Đừng ghen ghét chớ giận hờn với ai. Gái yêu chồng đẹp vui mọi vẻ, Giúp chồng nuôi con khỏe con ngoan. Dựng xây tôn thống họ hàng, Sáng trong như ngọc, nết càng đẹp ra. Khi lòng dục dâm tà đã mở, Quên yêu thương bỏ cả lễ nghi. Nết hư dù chỉ một ly, Tiếng tăm đồn đại bay đi khắp vùng. Lương tài Bài mười tám răn chữ lương tài Lương là đạo cao đức trọng Có lương tài chết sống thơm danh. Người tài lành có bạn lành, Người ác bạn ác kết thành tai ương. Người lương tài nên thường nói thẳng, Kẻ xấu xảo nịnh chẳng thương yêu. Người lành nói ít làm nhiều, Tiểu nhân múa mép, lắm điều ba hoa. Người lành không gian tà uẩn khúc, Hành động luôn chính trực, phân minh. Kiệm cần có lý có tình, Để không mang tiếng rằng mình kiêu sa. Vụng may áo gấm cũng hỏng, Làm bậy thì phá hỏng cơ ngơi. Biết ít thì sống thảnh thơi, Biết nhiều lắm chốn, lắm điều thị phi. Người giúp việc cần chi đẹp xấu, Cần chọn người trung hậu, chăm ngoan. Lòng người, nọc rắn khó phân, Mặt trời ai biết chuyển vần như xe. Của xóm Đông lấy về hôm trước, Đến hôm sau nó ngược xóm Đoài Việc hôm nay, việc ngày mai. Hãy đem hai chữ Lương Tài mà xem. Thịnh đức Bài hai mươi là thiên thịnh đức Một số điều đã được rút ra. Người thực tài chẳng ba hoa, Thường khi dung mạo cứ là như ngây. Có ruộng không cấy cày thì đói, Có sách không học hỏi thì ngu. Trai không dạy, khác chi lừa, Gái ngu thì cũng giống như lợn sề. Trai sợ vợ bởi vì nhu nhược, Gái kính chồng vì được nết ngoan. Phải dè xẻn bởi thiếu ăn, Sống xa xỉ bởi nguyên nhân của thừa. Vừa lười nhác, lại vừa ngu xuẩn, Thì giầu sang đâu đến mà mơ. Hay đến thân cũng thành sơ, Ngồi dai chủ chẳng bao giờ thích đâu. Uống rượu đấu khẩu nhau ít chứ, Mới là người quân tử phòng thân. Thóc tiền sòng phẳng đồng cân, Mới là đức độ, tinh thần trượng phu. Con cá bị giật lên bờ Có hối cũng chẳng bao giờ được tha. Làm việc xấu đã sa pháp luật, Hối ba lần cũng thật muộn mằn. Nước loạn chớ đến dung thân Nơi nguy hiểm chớ bước chân lần vào. Phép quyền biến làm sao biết trước, Phải đắn đo mong được an toàn, Lò lửa ví như phép quan, Lòng người như sắt như gang trong lò Người yếu phải nương nhờ người mạnh, Giúp được người là hạnh phúc thay, Không thù dai chẳng hại ai, Tuy nhiên vẫn phải nhớ bài phòng thân. Trên lượng cả, chẳng cần phạt dưới, Kẻ trịch thượng từ chối đừng chơi. Nước trong ít cá lội bơi, Sống nhiều khe khắt, ít người mến thân. Hiếu hoàn Bài hai mươi mốt hai chữ hiếu hoàn. Hiếu hoàn luật xoay vần vay trả, Báo ứng nhanh gương đã nhiều rồi. Nhạt nồng khéo ở lòng người, Dở hay đã có đạo trời phân minh. Trời mưa gió thình lình bất chắc, Người có khi dồn dập tai ương. Có đức dễ được thọ trường, Tu nhân tích đức, phúc thường dầy thêm. Lừa dối người là mầm tai họa, Phúc dầy nhờ lượng cả bao dung. Cẩn thận chẳng sợ khốn cùng, Nhẫn thì chẳng nhục, vạ không đến mình. Sống bình tĩnh được yên lành mãi Biết kiệm cần đỡ phải reo neo. Trên sông tùy khúc bơi chèo, Vào nhà tùy lúc liệu chiều tuân theo. Dạy con cháu bằng điều từ thiện, Lấy khoan dung điều khiển người theo. Một năm kế hoạch ăn tiêu, Không gì bằng cấy trồng nhiều lúa khoai Kế mười năm dài hơn một chút, Không gì bằng trồng được nhiều cây. Còn như kế hoạch lâu dài, Là trồng cây đức dẻo dai liền liền. Dù lắm tiền thuốc men tẩm bổ, Chẳng bằng đêm nằm ngủ riêng giường. Dạy con lần mở văn chương, Ở trong vùng bạc kim cương có thừa. Một con được ơn vua lộc nước, Để cả nhà cũng được thơm lây. Siêng năng học tập đêm ngày, Để mà chiêm nghiệm lời này khuyên răn. Việc đúng cứ tiến hành đừng sợ, Trời sẽ cho phúc ở tầm tay Lấy điều đạo lý xưa nay, Truyền cho con cháu đời này đời sau. Thú nhàn Lẩn thẩn ngày qua tháng qua, Một phen xuân tới một phen già. Ái ưu vằng vặc trăng in nước, Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa. Án sách hãy còn án sách cũ, Nước non bạn với nước non nhà. An phận thì hơn Giàu ba bữa khó hai niêu, An phận thời hơn hết mọi điều. Khát uống trà mai hơi ngột ngột, Sốt kề hiên trúc gió hiu hiu. Giang sơn tám bức là tranh vẽ, Hoa cỏ tư mùa ấy gấm thêu. Thong thả hôm rằm sớm thức, Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu. Lòng thư thái Vinh nhục bao phen hẳn đã từng Lòng người sự thể dửng dừng dưng Khen thì nên tốt, chê nên dại Mất cũng chẳng âu được chẳng mừng Có ai biết được lòng tri kỷ Vời vợi non cao nguyệt một vừng Điền viên thú Trải gian nguy đã mấy phen, Thân nhàn phúc lại được về nhàn. Niềm xưa trung ái thề chăng phụ, Cảnh cũ điền viên thú đã quen. Ba quyển đồ thư thu nặng túi, Một thuyền phong nguyệt chở đầy then, Trời cũng biết nơi lành dữ, Hoạ phúc chăng dung cái tóc chiên. Thú ẩn dật Một cơ yêu nhọc đổi thay điều Yêu bao nhiêu thì nhọc bấy nhiêu. Tham phải cái công danh luỵ, Muốn cho con tạo hoá trêu. Vui vườn Lạc Xã năm khách, Lánh đất Nam Dương một lều. Khuyên đời Mựa chê người vắn, cậy ta dài, Dù kém dù hơn ai mặc ai. Vị nọ có bùi, không có đượm, Thức kia chầy thắm, lại chày phai. Dù hay phận mới, yên dầu phận, Dẫu có tài hơn, chớ cậy tài. Quân tử niệm đời nơi xuất xử, Ắt cùng khôn hết cả hoà hơi. Mặc chê khen Thị phi chẳng quản mặc chê khen, Ngu dại trần trần tính đã quen. Cảnh cũ điền viên tìm tính cũ, Khách nhàn sơn dã dưỡng thân nhàn. Nhà thông đường trúc lòng hằng mến, Cửa mận tường đào bước ngại chen. Sự thế tuần hoàn hay đắp đổi, Từng xem thua được một hai phen. Dại khôn Làm người có dại mới nên khôn, Chớ dại ngây chi, chớ quá khôn. Khôn được ích mình, đừng để dại, Dại thì giữ phận, chớ tranh khôn. Khôn mà hiểm độc là khôn dại, Dại vốn hiền lành ấy dại khôn. Chớ lấy rằng khôn khinh kẻ dại, Gặp thời, dại cũng hoá nên khôn. Thú dưỡng thân Mới hay phú quý bởi thời vần, Tua sá ngang tàng thú dưỡng thân. Bất ý miệng ngâm câu quốc ngữ, Giải phiền tay chuốc chén quỳnh xuân. Đường hoa chào khách mặt nhìn mặt, Ngõ hạnh đưa người chân đá chân. Dẫu có ai han thời sẽ nhủ Thái bình thiên tử, thái bình dân. Tiêu sái tự nhiên Tiêu sái tự nhiên ắt nhẹ mình, Nài bao quyền cả áng công danh. Vô tâm nước có gương soi bạc. Đắc thú kho đầy gió mát thanh. Trẻ dầu biết cơ tạo hoá, Già lọ phục thuốc trường sinh. Thanh nhàn dẫu được qua ngày tháng, Non nước còn xem chốn hữu tình. Của nặng hơn người Đời này nhân nghĩa tựa vàng mười, Có của thì hơn hết mọi lời. Trước đến tay không nào đoái hỏi, Sau vào nặng túi lại vui cười. Anh anh chú chú mừng hơ hải, Rượu rượu chè chè thết tả tơi. Người của lấy cân ta thử nhắc, Mới hay rằng của nặng hơn người. Đôi nét về tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Đôi nét về tiểu sử nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm nguyên có tên khai sinh là Nguyễn Văn Đạt, sinh ngày 6 tháng 4 năm Tân Hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 22 dưới triều Lê Thánh Tông 13 tháng 5 1491, ở thời kỳ được coi là thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Ông sinh tại làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương nay thuộc xã Lý Học, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Cha của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa hiển đạt trong đường khoa cử. Mẹ của ông là bà Nhữ Thị Thục, con gái út của quan Tiến sĩ Thượng thư bộ Hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông, bà là người phụ nữ có bản lĩnh khác thường, học rộng biết nhiều lại giỏi tướng số, nên muốn chọn một người chồng tài giỏi để sinh ra người con có thể làm nên đế nghiệp sau này, nhưng kén chọn mãi đến khi luống tuổi bà nghe lời cha mới lấy ông Nguyễn Văn Định người huyện Vĩnh Lại là người có tướng sinh quý tử. Quê ngoại của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương nay là thôn Nam Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng. Nội ngoại đôi bên thuộc hai phủ nhưng bên này bên ấy nhìn rõ cây đa đầu làng, chỉ qua con sông Hàn Tuyết Giang nối đôi bờ. Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục từ nhỏ trong một gia đình nội ngoại đều có học vấn uyên thâm. Hầu hết những nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm đều ghi nhận ảnh hưởng lớn của bên họ ngoại trong việc hình thành nhân cách cũng như tài năng của ông. Trong gia phả của họ Nguyễn thuộc nhánh hậu duệ người con trai thứ 7 của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở thôn An Tử Hạ còn ghi lại “Phu nhân hồi An Tử Hạ, ỷ phụ thân giáo dưỡng Đạt nhi tam tuế”, qua đó cho thấy người mẹ Nhữ Thị Thục và ông ngoại Nhữ Văn Lan có công lớn giáo dưỡng Nguyễn Văn Đạt khi còn nhỏ. Những sáng tác của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Thể loại sáng tác Thơ chữ Hán Bài chi tiết Bạch Vân am thi tập Về thơ chữ Hán, ông có Bạch Vân am thi tập, theo ông cho biết là có khoảng một nghìn bài, nay còn lại khoảng 800 bài. Trong lời đề tựa cho tập thơ chữ Hán của mình, ông đã viết “… Tuy nhiên cái bệnh yêu thơ lâu ngày tích lại chưa chữa được khỏi vậy. Mỗi khi được thư thả lại dậy hứng mà ngâm vịnh, hoặc là ca tụng cảnh đẹp đẽ của sơn thủy, hoặc là tô vẽ nét thanh tú của hoa trúc, hoặc là tức cảnh mà ngụ ý, hoặc là tức sự mà tự thuật, thảy thảy đều ghi lại thành thơ nói về chí, được tất cả nghìn bài, biên tập thành sách, tự đặt tên là Tập thơ am Bạch Vân” Bạch Vân am thi tập tiền tự. Thơ chữ Nôm Bài chi tiết Bạch Vân quốc ngữ thi tập Về thơ chữ Nôm, ông có Bạch Vân quốc ngữ thi tập còn gọi là Trình quốc công Bạch Vân quốc ngữ thi tập, chính ông ghi rõ sáng tác từ khi về nghỉ ở quê nhà, nhưng không cho biết có bao nhiêu bài, hiện còn lại khoảng 180 bài. Thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm làm theo thể Đường luật và Đường luật xen lục ngôn nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài mà việc đó được thực hiện bởi những nhà biên soạn sau này. Theo Phả ký Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký của Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có bài phú bằng quốc âm nhưng nay đã bị thất lạc. Các thể loại khác Ngoài di sản văn học với hơn 800 bài thơ cả chữ Hán và chữ Nôm còn lưu lại đến ngày nay, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng để lại nhiều bài văn bia bi ký nổi tiếng như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký, Tam giáo tượng bi minh… Hầu hết bia đá ông cho khắc lúc sinh thời đã bị thất lạc hay hư hại qua hàng thế kỷ nhưng nhiều bài văn bia nhờ được người đương thời chép lại mà còn lưu đến hôm nay. Một số văn bia do Nguyễn Bỉnh Khiêm soạn và cho khắc đá đã được tìm thấy vào năm 2000 tại huyện Quỳnh Phụ của tỉnh Thái Bình nằm giáp với huyện Vĩnh Bảo của Hải Phòng qua sông Hóa. Trong dân gian còn lưu hành nhiều câu sấm Trạng. Các tập sấm ký Nôm thường mang tên Trạng Trình Sấm Trạng Trình và phần lớn viết theo thể lục bát như Trình quốc công sấm ký, Trình tiên sinh quốc ngữ. Sấm Trạng Trình là một hiện tượng văn học cần phải được tìm hiểu và xác minh thêm. Những giá trị của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhìn nhận là một trong những nhà văn hóa lớn của dân tộc. Ông là một chính khách có uy tín, bậc hiền triết, nhà tiên tri… Nhưng ông cũng đồng thời là một tác gia lớn có những đóng góp quan trọng trong sự phát triển của văn học dân tộc. Sáng tác của Nguyễn Bỉnh Khiêm phong phú, gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà thơ lớn, không chỉ của thế kỷ XVI. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng, tác động tích cực vào đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của tiến trình văn học dân tộc. Trên đây là một số những sáng tác nổi bật của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm do đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hy vọng với những thông tin trên đây sẽ giúp bạn có thêm nhiều hiểu biết hơn về nhà thơ bạn nhé! Xem thêm +666 Lời Chúc Buổi Tối Vui Vẻ và Lãng Mạn nhất Anh Ngữ Quốc Tế Ocean Edu +222 Hình tô màu máy bay trực thăng cho bé đẹp Hướng dẫn cách chọn mua mành tre cuốn sushi tốt nhất Top 20 Trường THPT tại Hà Nội nổi tiếng đào tạo tận tâm nhất
Năm 1991, ông đã làm bộ phim tài liệu "Nguyễn Bỉnh Khiêm - Cây đại thụ rợp bóng 500 năm". Giải thưởng Hội hữu nghị Việt Nhật 1992. Bài viết dưới đây ghi lại những câu sấm truyền nổi tiếng của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cho năm 2011. ***Trong lịch sử Việt Nam, nhà tiên tri đầu tiên được mọi người biết đến là Thiền sư Vạn Hạnh 938-1025 với những câu sấm về việc xuất hiện nhà Lý. Hơn 500 năm sau, xuất hiện Trạng Trình - nhà tiên tri thứ hai. Ở Pháp, cùng thời với Trạng Trình có nhà tiên tri Nostradams 1503-1566 sinh trưởng ở thành phố Saint Re'my thuộc xứ Provence. Toàn bộ sấm ngữ của ông này đã được xuất bản tại Lyon năm 1555 dưới tên gọi Les centurtes Những thế kỷ. Năm 1966 kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông, tác phẩm này được in lại tại Nhà Xuất Bản Pierre Trình sinh trước 1491 và mất sau 1586. Năm 1986, kỷ niệm 400 năm ngày mất của Trạng Trình, người ta hay nhắc tới câu sấm tiên đoán về sự trở về của ông "Bao giờ Tiên Lãng xẻ đôi - Sông Hàn nối lại thì tôi lại về". Từ đấy, Trạng Trình trở về với thời đại chúng ta thực 1991, kỷ niệm 500 năm ngày sinh ông, đã có một lễ kỷ niệm trọng thể của Nhà nước diễn ra tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội. Năm nay, kỷ niệm 520 năm ngày sinh ông 1491-2011, chưa biết chúng ta sẽ làm gì, nhưng vào dịp cuối năm cũ 2010, cụ đã "gặp" nhà ngoại cảm tên Phương người Giồng Trôm, Bến Tre và chỉ cho ông tìm ra mộ thật của mình với ước muốn để cháu con và hôm nay biết đúng chỗ và thờ cúng. Theo chỉ dẫn của cụ, nhà ngoại cảm đã tìm được mộ cụ ở làng Triền Am, Vĩnh Bảo, Thành phố Hải nhiều đời nay, những câu sấm tiên tri của Trạng Trình đã giúp cho bao chính khách biết việc mà xuất xử đúng đắn. Nhờ tài kiệt xuất này, ông thật xứng đáng với câu đối đã ghi ở đền thờ tại Bạch Vân Am "Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng - Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu" Nối được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng - Tìm hiểu việc đã qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu.Sinh thời, Trạng Trình cùng bạn thần đồng Bùi Ngu Dân thường gọi là Bùi Công thường rủ nhau bàn định bấm đoán về vận nước. Hay tin Mạc Đăng Dung muốn thoán ngôi vua Lê, cặp tri kỷ cùng nhau đoán định. Bùi Công viết vào lòng tay bốn câu ngũ ngôn "Mộc đinh niên đinh khẩu - Bát đạo nhập mộc văn - Băng tâm đại đức vũ - Thiên hạ bán rã bình" Phương Đông Mạc lên ngôi - Định đoạt nên danh tiếng - Thì tám hướng sẽ loạn - Những người luôn trung thành - đứng lên cầm vũ khí - Chỉ nửa được thái bình. Còn Trạng Trình thì viết vào lòng tay thất ngôn tứ tuyệt "Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh - Can qua xứ khổ đao binh - Mã đề dương cước anh hùng tận - Thân dậu niên lai kiến thái bình" Cuối năm rồng, đầu năm rắn xảy ra chiến tranh - Nạn binh đao ở khắp mọi nơi - Cuối năm ngựa, đầu năm dê anh hùng mất hết - Qua năm khỉ, năm gà sẽ thái bình.Trong lịch sử quả thật, Mạc Đăng Dung đã thực hiện lập Lê Cung Hoàng lên ngôi, sau đó sai giết Lê Chiêu Tông vào năm sau năm Ất Dậu 1525 và đoạt ngôi vào năm Đinh Hợi 1527 lập ra triều Mạc. Bốn câu này khi vào tuổi già, Trạng Trình ghép vào trong bài sấm ký dài của mình thì lại được dùng để nhận định vào thời đại của chúng ta từ năm Canh Thìn 1940 đến năm Ất Dậu 1945. Có người còn nghĩ rằng Bác Hồ từ câu sấm này, so đọ với tình hình Chiến tranh thế giới lần thứ Hai đã tới hồi sắp kết thúc mà quyết tâm cùng dân tộc làm nên Cách Mạng Tháng Tám 1945. Ngay từ khi còn ở Cao Bằng đầu năm Ất Dậu, Bác đã viết "Ất Dậu ắt thành công".Vào những năm Việt Nam hết sức rối ren giữa các thế lực nhà Lê với nhà Mạc, giữa Trịnh Kiểm và Nguyễn Hoàng, chỉ với 6 câu thơ tiên tri, Trạng Trình đã thu xếp được các thế lực vào đúng nơi trên đất nước khiến cho dân đỡ lầm than khổ sở trong nạn binh đao. Khi Nguyễn Hoàng xin ý kiến, ông đã tặng cho Nguyễn Hoàng hai câu thơ "Hoành Sơn nhất đái-Vạn đại dung thân" có bản đề là "Khả dĩ dung thân". Ý rằng hãy tìm đường vào phía Nam dựa vào dãy Trường Sơn mà tồn tại. Nguyễn Hoàng nghe theo xin Trịnh Kiểm vào trấn giữ từ Đèo Ngang trở vào. Khi người nhà Trịnh Kiểm hỏi ông về vị trí của mình, có nên thoán ngôi vua Lê không, ông trả lời "Chịu khó mà thắp nhang- thờ Phật thì ăn oản" Có nghĩa rằng phải thờ nhà Lê thì có lộc. Trước khi ông mất, nhà Mạc xin ý kiến tồn tại thế nào, ông đã đọc hai câu thơ "Cao Bằng tàng tại- tam đại tồn cô" nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ sống thêm được ba đời nữa. Nhà Mạc đã theo kế ấy và đã tồn tại được thêm ba đời nữa thật. Có lẽ, do Cao Bằng cũng từng là kinh đô của vua Mạc, nên khi về nước lãnh đạo dân tộc làm Cách Mạng Tháng Tám, Bác Hồ đã chọn Cao Bằng làm căn cứ địa cách khi ông mất, những lời sấm vẫn được chứng nghiệm ở đời sau. Có giai thoại nói rằng vào thời Tự Đức, bỗng nhiên quan quân kéo về đập phá nhà thờ Quan Trạng. Hỏi ra mới hay vì Tự Đức quá tức giận bởi câu sấm "Gia Long tam đại-Vĩnh Lại vi vương". Lời sấm truyền này nói rằng tự Đức không phải dòng giống Gia Long mà là con của Quận Quế- Người Vĩnh Lạc Vĩnh Bảo hôm nay.Lại có giai thoại kể rõ, Quan Thượng Tứ - Tổng Đốc Hải Dương có lần về thăm quê Trạng Trình. Khi đi dọc sông Tuyết Giang, thấy có ngôi mộ lớn đang có nguy cơ sụp lở, Thượng Tứ xem xét cẩn thận, thấy Trạng Trình là thầy rất "cao tay" sao lại đặt mộ bố ở chỗ thế này. Sau khi bàn bạc với con cháu Trạng Trình, Thượng Tứ quyết để lại ngôi mộ vào chỗ khác, ngầm sửa lại lỗi xưa của Trạng Trình. Khi đào đến gần hộp quách, thấy có tảng đá lớn, lật lên xem thì thấy tấm bia khắc hai dòng chữ "Bát thập niên tiền khi chung vũ tả - Bát thập niên hậu khí nhập ư trung" Tám mươi năm trước khí tốt bên trái - Tám mươi năm sau khí tốt rời vào trong.Những giai thoại như trên nhiều và rì rầm ở khắp nơi. Nào là giai thoại cha con thằng Khả đánh đổ bia. Nào là giai thoại thằng Trứ Nguyễn Công Trứ phá đền... đều là những câu sấm lẻ Trạng Trình thốt nhiên nói ra. Khi về già, Trạng Trình mới làm hẳn một bài sấm ký dài lưu truyền lại với mục đích như câu cảm đề đã ghi "Bí truyền cho con cháu- Dành hậu thế xem chơi". Bài sấm ký nói về những biến thiên trong lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng cho đến hôm từ đầu đến khi Trạng Trình quy tiên thì không nhiều, chủ yếu là từ sau khi ông qua đời cho đến hôm nay. Bài sấm rất dài nhưng có đoạn gần cuối có vẻ ứng với hai năm tùng bách mộc này 2010 và 2011 "Phân phân tùng bách khởi- Nhiễu nhiễu xuất đông chinh - Bảo Giang thiên tử xuất - Bất chiến tự nhiên thành". Mọi ý sâu xa xin để người đời giải đáp, tức là vào Tết Tân Mão 2011, thiên hạ sẽ thái Thụy Kha
Đỗ trạng nguyên khi đã hơn 40 tuổi, Trạng Trình khiến nhiều người mến phục nhờ tài tiên tri và triết lý "thiện là dòng dõi của giáo dục". Nguyễn Bỉnh Khiêm, lúc nhỏ có tên là Nguyễn Văn Đạt, sinh ngày 6/4/1491 âm lịch ở làng Trung An, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương nay thuộc huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng dưới thời vua Lê Thánh Tông - thời kỳ thịnh trị nhất của nhà Lê sơ. Sinh ra trong gia đình có bố mẹ nổi tiếng học rộng, mẹ là con út của quan tiến sĩ thượng thư bộ Hộ triều vua Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm được giáo dục cẩn thận, rèn luyện cả về thể lực và trí lực nên "to khỏe, thông minh khác thường, chưa đến một tuổi đã nói sõi". Lên 4 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm được mẹ dạy sách Kinh, thơ Nôm... Đến tuổi trưởng thành, nghe tiếng bảng nhãn Lương Đắc Bằng ở làng Lạch Triều thuộc huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa ngày nay nổi danh trong giới sĩ phu đương thời, Nguyễn Bình Khiêm đến tận nơi tầm sư học đạo. Vốn sáng dạ lại chăm chỉ học hành, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhanh chóng trở thành học trò xuất sắc của thầy và được chính thầy giao con trai cho nuôi dạy. Trạng nguyên ở tuổi hơn 40 và những lời tiên tri nổi tiếng Khi nhà Hậu Lê Lê sơ và Lê trung hưng rơi vào khủng hoảng, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không ra ứng thi sớm. Tính từ khi trưởng thành, ông bỏ qua sáu khoa thi dưới triều Lê sơ. Ngay cả khi nhà Mạc lên thay cho Lê sơ năm 1527, xã hội dần ổn định, ông vẫn bỏ qua hai khoa thi đầu dưới triều Mạc. Tới năm 1535, dưới thời vua Mạc Đăng Doanh, thời thịnh trị nhất của nhà Mạc, ông mới quyết định đi thi và đậu ngay trạng nguyên. Năm đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã ngoài 40 tuổi. Sau khi đỗ đạt, Nguyễn Bỉnh Khiêm được bổ nhiệm làm nhiều chức vụ, được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi Trình Quốc Công nên dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Trong gần 20 năm từ 53 đến 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm không ra ở hẳn kinh sư nhưng vẫn đảm nhiệm nhiều việc triều chính. Sách Lịch triều hiến chương loại chí viết "Vua Mạc tôn như bậc thầy, khi trong nước có việc quan trọng vẫn sai sứ đến hỏi ông. Có lúc còn triệu ông về kinh để hỏi mưu lớn", "ông học rộng, hiểu sâu nghĩa lý Kinh Dịch, mưa nắng, họa, phúc việc gì cũng biết trước". Tượng Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ảnh Trường THPT chuyên Nguyễn Bỉnh Khiêm - Vĩnh Long Sử sách đều thừa nhận Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà dự báo, hoạch định chiến lược kỳ tài, coi ông là nhà tiên tri số một nước Việt. Ông từng đưa ra lời sấm bảo nhà Mạc chạy lên Cao Bằng dựng nghiệp, sau khi thất thủ ở Thăng Long, và sẽ tồn tại ba đời. Quả nhiên, điều này đúng. Ông còn khuyên Trịnh Kiểm "giữ chùa thờ Phật được ăn oản", tìm người trong tông thất nhà Lê lập làm vua. Nhà Trịnh làm theo và từ đó nối đời cầm quyền, nhưng danh nghĩa vẫn là tôn phò nhà Lê. Với nhà Nguyễn, từ khi Nguyễn Kim chết, Nguyễn Uông, con cả của Nguyễn Kim đã bị Trịnh Kiểm ám hại. Trước tình thế nguy nan, Nguyễn Hoàng con trai thứ Nguyễn Kim đã cho người đến hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm và nhận được câu ẩn ý "Hoành sơn nhất đái khả dĩ dung thân"nghĩa là một dải Hoành sơn có thể dung thân được. Nhờ đó, năm 1568 Nguyễn Hoàng đã xin họ Trịnh vào trấn thủ xứ Thuận Hóa rồi dần xây dựng cơ đồ họ Nguyễn ở phương Nam. Trong bài thơ Cự Ngao Đới Sơn, thuộc tập thơ Bạch Vân am thi tập, ông viết "Biển Đông vạn dặm dang tay giữ/ Đất Việt muôn năm vững trị bình/ Chí những phù nguy xin gắng sức/ Cõi bờ xưa cũ tổ tiên mình". Câu này như lời khuyên của Trạng Trình với thế hệ sau, rằng phải nắm giữ được biển Đông thì đất nước mới thái bình, thịnh trị muôn đời. Trong bài viết Tầm nhìn chiến lược về biển đảo của Trạng Trình từ 500 năm trước, tác giả Nguyễn Đình Minh nhận định "Trước đây khi đề cập đến lãnh thổ, chúng ta thường nói nhiều về sông núi, đất đai, chúng ta có nói về biển nhưng không nhiều, biển không là trọng điểm nhấn mạnh. Nhưng từ 500 năm trước, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự báo tầm quan trọng của biển đảo dẫn đến sự tồn vong thịnh trị của cả quốc gia. Điều ấy cho thấy tầm chiến lược về bảo vệ của ông rất rộng lớn và toàn diện". Với bài thơ Cự Ngao Đới Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể được coi là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nhận thức được tầm quan trọng của việc gìn giữ chủ quyền biển Đông. Triết lý giáo dục của người thầy từng đào tạo nhiều nhân tài Ngay từ khi đỗ trạng nguyên, Nguyễn Bình Khiêm đã dạy học. Theo cuốn Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp - ba bậc thầy của nền giáo dục Việt Nam, học trò được ông đào tạo thời kỳ này có rất nhiều người nổi tiếng về sau. Trong đó có Lương Hữu Khánh, con trai của thầy Lương Đắc Bằng, đỗ cử nhân, trở thành tướng giỏi, văn võ song toàn; Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan thi đỗ tiến sĩ, có tài năng toàn diện về võ bị, văn học và ngoại giao; Nguyễn Dữ - nhà văn nổi tiếng trong lịch sử văn học Việt Nam... Đến khi lui về quê, ông đã dựng am Bạch Vân, lấy hiệu là Bạch Vân cư sĩ, lập quán Trung Tân, làm cầu Nghinh Phong, Trường Xuân cho dân qua lại thuận tiện và mở trường dạy học bên cạnh sông Tuyết hay sông Hàn ở quê nhà. Vì vậy, sau này, các môn sinh tôn ông là "Tuyết Giang phu tử". Nguyễn Bình Khiêm đã giáo dục cho nhân dân và học trò rất nhiều về đạo làm người, đạo lý ở đời, sự học, cách học. Ông coi việc giáo dục phải thực hiện được vai trò định hướng ý chí và hành động cho người học, nhất là việc gắn ý chí học hành với lý tưởng cống hiến hết mình cho đất nước. Ông đặc biệt đề cao trách nhiệm cống hiến xã hội không ngừng, cho rằng tác dụng cao nhất của giáo dục là cứu nhân độ thế, hướng con người trở về tịnh thiện bởi "thiện là dòng dõi của giáo dục", đúng như phương châm sư phạm xưa. Trên cơ sở giáo dục cái thiện, thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn dạy kinh, truyện theo đúng chương trình thi cử lúc bấy giờ. Theo các thư tịch cổ, việc thi cử lúc bấy giờ rất quy mô, học sinh học vất vả, thầy giáo phải bỏ nhiều công kèm cặp. Việc các học trò của thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm chiếm gần hết thứ hạng cao ở các kỳ thi chứng tỏ việc dạy học của thầy quy củ, nghiêm khắc. "Thầy giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm còn khác người ở chỗ muốn đào tạo học trò thành những người có thực học, có trí thức toàn diện để giúp đời", tác giả Trần Lê Sáng viết trong cuốn sách về ba bậc thầy của nền giáo dục Việt Nam. Nhiều nghiên cứu về sau chỉ ra rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn chủ trương thúc đẩy con người nâng cao hiểu biết về thế giới xung quanh, có cách hành xử đúng mực trong đời sống. Ông coi việc học phải nhằm hành đạo, yêu cầu các học trò nêu gương bậc thánh hiền, đề cao vai trò của sự tìm tòi, học hỏi. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng coi trọng đạo lý hơn văn chương. Điều này thể hiện rõ trong các tác phẩm thơ văn. Ông sáng tác rất nhiều thơ văn, bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Về thơ chữ Hán, Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân am thi tập với khoảng một nghìn bài. Trần Thị Vinh viết trong cuốn Nhà Mạc và thời đại nhà Mạc - Hơn hai mươi năm nghiên cứu và nhận thức rằng đây là con số mà từ thời đại nhà Mạc trở về trước hoàn toàn chưa có. Đến như Nguyễn Trãi cũng chỉ có 105 bài. Về thơ chữ Nôm, Nguyễn Bỉnh Khiêm có Bạch Vân quốc ngữ thi tập nhưng không rõ có tất cả bao nhiêu bài. Ngoài ra, ông để lại nhiều bài văn bia và sấm ký. Ông được coi là người viết nhiều thơ văn nhất trong năm thế kỷ đầu tiên của nền văn học nước nhà. Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585. Trong rất nhiều đóng góp của cho nền văn hóa dân tộc, đóng góp lớn lao cho sự nghiệp giáo dục được nhiều nhà khoa học đánh giá cao. Tất cả thành tựu giáo dục ở thời Mạc, không thể không nhắc tới công lao của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngày nay, nhiều trường học được đặt theo tên ông nhằm tưởng nhớ đến bậc thầy vĩ đại.
Link gốc vị và các bạn thân mến, Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm – người mà dân gian hay gọi là Trạng Trình là một nhà văn hóa lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông không chỉ được biết đến với tư cách đạo đức, tài thơ văn mà còn được biết tới với tài năng tiên tri ứng nghiệm, không ai trong nước Việt có thể vượt qua. Dân gian lưu truyền rằng, Nguyễn Bỉnh Khiêm có những dự đoán tương lai bí ẩn, thường gọi là Sấm Trạng Trình, mà cho đến những đời sau, khi sự việc xảy ra người ta mới giật mình bởi độ chính xác đến kinh ngạc. Và trong số đó có cả lời tiên tri về Bác Podcast, các bạn có thể theo dõi chúng mình quaYoutube ơn nhiều nha!
nguyễn bỉnh khiêm tiên tri về bác hồ