Lam Trường tiết lộ giá trị hợp đồng mà anh kí ở thời điểm năm 1996 là một con số rất lớn, có thể quy đổi ngang giá với chiếc xe Dream II nhập từ Thái Lan hoặc hàng chục cây vàng hay có thể mua được một mảnh đất.
Giá vàng SJC Việt Nam ngày 11/04/1996 ‹ Giá vàng ngày 10/04/1996 Giá vàng ngày 12/04/1996 › Đang cập nhật Giá vàng SJC Việt Nam 4.2 trên 651 đánh giá Tra cứu lịch sử giá vàng SJC Việt Nam Vui lòng điền ngày cần tra cứu giá vàng SJC vào ô bên dưới, sau đó bấm Tra cứu. ↆ Tra cứu
Trao đổi với Tuổi Trẻ Online, chủ một cửa hàng tại đường Lê Lợi cho biết đã thuê mặt bằng tại đây từ năm 1996, đến nay giá mặt bằng chưa đến 100 triệu đồng/tháng.Tuy nhiên, đến hết tháng 8 này là kết thúc hợp đồng, chủ mặt bằng dự tính tăng giá lên 150 triệu đồng/tháng nên vị chủ cửa hàng này
chủ một cửa hàng tại đường Lê Lợi cho biết đã thuê mặt bằng tại đây từ năm 1996, đến nay giá mặt bằng chưa đến 100 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, đến hết tháng 8 này là kết thúc hợp đồng, chủ mặt bằng dự tính tăng giá lên 150 triệu đồng/tháng Click to expand ngồi không nhận gần 1/2 lương vâu dơ rồi
Các tác giả chỉ ra rằng ba năm sau năm 1996, khi Chủ tịch Fed Alan Greenspan tuyên bố rằng thị trường đang định giá cao một cách phi lý, giá trị định giá của vàng đã tăng cao hơn 40%. Để nhấn mạnh vấn đề này, họ ghi chú rằng sự tăng giá thực của vàng có mối tương quan lớn với nhu cầu của người mua ETF vàng.
Cùng Hải Đăng Travel khám phá về lịch trình đi tour du lịch Thái Lan giá rẻ từ Hà Nội để các bạn có thể nắm rõ những địa điểm cũng như những nơi nào đến ở xứ sở Chùa Vàng này nhé được xây dựng vào năm 1996, vào năm thứ 50 của triều đại vua Rama IX ở Thái
mgdgxhd. Hơn 20 năm kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, giá vàng năm 1997 vẫn được nhắc đến. Nó trở thành một mô hình đặc trưng cho sự biến động của giá vàng. Vậy vào thời điểm đó chuyện gì đã xảy ra? Giá vàng trực tuyến những năm 1997 bao nhiêu 1 chỉ?Khủng hoảng tiền tệ châu Á 1997 - nguyên nhân trực tiếp tác động đến giá vàngNgày 2/7/1997, sau thất bại của những nỗ lực yếu ớt để không làm mất giá đồng tiền baht của Thái Lan, một cuộc khủng hoảng kinh tế đã diễn ra. Trong những năm trước đó, Châu Á được xem là một con rồng đang vươn mình mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế nhanh chóng một cách đáng kinh ngạc 8-10%. Chẳng những thế, thị trường chứng khoán, nhu cầu tiêu dùng cũng ngày càng cao. Do vậy, khu vực này thu hút được một nguồn ngoại tệ khổng lồ. Những dòng tiền đầu tư trên khắp thế giới, nhất là dòng tiền ngắn hạn - con dao hai lưỡi dẫn đến khủng hoảng kinh biến của khủng hoảng tài chính 1997Để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, các nước châu Á đã ký kết các hợp đồng mua bán ngoại tệ ngắn hạn, lãi suất cao. Riêng đầu năm 1997, người Thái đã ký ít nhất 2 hợp đồng với giá trị lên đến 15 tỷ USD. Hai trong số đối tác của họ là công ty tài chính Quantum George Soros và Tiger Management Corp. Các tổ chức này đã thu mua đồng baht Thái, cho thanh toán chậm từ 6 tháng đến 1 năm. Với tình hình khả quan của kinh tế lúc đó, các nhà đầu tư và Thái Lan đều tin rằng đồng baht sẽ tăng ngày 14 - 16/5/1997, những dấu hiệu khủng hoảng bắt đầu nhen nhóm. Thị trường tiền tệ ở Thái Lan tràn ngập lệnh bán đồng bath. Để giữ tỷ giá hối đoái ở mức ổn định 25 baht/USD, ngân hàng Trung Ương Thái Lan đã chi ra gần 10 tỷ USD trong vòng 2 tuần. Tuy nhiên, đó vẫn là hành động vô ích khi chỉ ngay sau đó, baht mất giá 50%. Sau quyết định thả nổi đồng tiền của Thái Lan, đồng baht tiếp tục giảm thêm 108%. Lúc này nó cũng ảnh hưởng đến đồng peso Philippines, đô la Singapore, ringgit Malaysia, rupiah Indonesia. Bắt đầu từ Đông Nam Á, cơn sóng khủng hoảng tiếp tục lan ra khiến Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore,...... đều bị ảnh nhân của cuộc khủng hoảng kinh tếSự phát triển không bền vữngĐầu tiên, tốc độ phát triển của các quốc gia châu Á không tỉ lệ thuận với sự bền vững. Đa số các quốc gia đều lấy xuất khẩu làm trọng tâm. Do vậy, các nhà hoạch định chính sách đã cố gắng giữ tỷ giá hối đoái ở mức thấp nhất. Điều này giúp các nước có thể tăng tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, thay vì neo tiền tệ bền vững thì các ngân hàng Trung Ương lại chọn cách mua bán ngoại xuất khẩu của các nước chỉ tập trung vào một số mặt hàng gây mất cân đối nghiêm trọng. Cụ thể, chỉ riêng mặt hàng điện tử đã chiếm 21,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của Thái Lan. Tương tự, tỉ lệ này ở Malaysia là 49,2% và Philippines là 43,6%. Khi công nghệ dần lạc hậu, các quốc gia này vừa bị giảm khả năng cạnh tranh vừa phải tăng nhập khẩu. Điều này dẫn đến tài khoản vãng lai bị thâm hụt nghiêm trọng so với mức cho phép là 5% GDP. Trong năm 1996, độ thâm hụt của Thái đã lên đến 8,5%. Ở Philippines, tỉ lệ này lên đến 13%.Sự mất cân đối trong đầu tưĐể bù đắp cho sự thiếu hụt ngoại tệ, các nước châu Á đã lựa chọn hình thức vay vốn nước ngoài. Chính sách phát triển lúc này chỉ tập trung vào số lượng chứ không phải chất lượng. Nghĩa là, các nước sẽ vay vốn, tăng sản xuất để chiếm thị trường. Sau khi ổn định mới tính đến chuyện kiếm lời. Tuy nhiên, khi nguồn cung vượt nhu cầu của thế giới thì thua lỗ là một chuyện tất vì vay các nguồn vốn dài hạn, Thái Lan, Hàn Quốc,... lại chọn vay ngắn hạn với lãi suất cao hơn. Ở Thái Lan, tỷ lệ nợ ngắn hạn chiếm đến 45%. Còn ở Hàn Quốc, có đến 80 tỷ trong số 110 tỷ USD tổng nợ nước ngoài là nợ ngắn khi có được nguồn ngoại tệ, việc quản lý vốn cũng có nhiều bất cập. Nguồn tiền ngắn hạn lại được dùng đầu tư vào các dự án dài hạn như kết cấu hạ tầng, bất động sản, địa ốc,... Các ngân hàng cũng phê duyệt các khoản đầu tư vô tội vạ, tăng rủi ro do các khoản nợ xấu. Vào thời điểm đó, nợ xấu chiếm đến 20%, 23% GDP lần lượt ở các nước Thái Lan, nữa, có đến 80% vốn đầu nước ngoài vào châu Á dưới hình thức gián tiếp. Các nhà đầu tư trên thế giới sẽ mua cổ phiếu, cổ phần của các công ty trên sàn chứng khoán. Khi dấu hiệu suy thoái nổ ra, nhà đầu tư bắt đầu bán thốc bán tháo khiến nội tệ bị giảm giá nghiêm ra, có một số nguyên nhân khác dẫn đến khủng hoảng kinh tế như đầu cơ ngoại tệ, bất ổn chính trị, chính sách tài chính,..Giá vàng năm 1997 bao nhiêu tiền 1 chỉGiá trị của vàng có thể phân tách thành 3 phần khác nhau. Đó chính là giá trị hàng hóa, giá trị tiền tệ và giá trị bảo hiểm rủi ro. Trong các cuộc khủng hoảng kinh tế, giá trị thứ ba của vàng được nhắc đến nhiều nhiên, năm 1997 khi khủng hoảng tiền tệ diễn ra ở châu Á lại là một câu chuyện khác. Giá vàng năm 1997 giảm đột biếnVào tháng 7 năm 1997, các ngân hàng trung ương phương Tây bắt đầu giảm dự trữ vàng một cách có trật tự. Bỉ có động thái dùng vàng đúc tiền để ngụy trang, Hà Lan, Thụy Sỹ bán vàng trực tiếp. Úc cũng bán hết 2 phần 3 trữ lượng vàng quốc gia tương đương 1,7 tỷ đô từ đầu đến cuối năm 1997, giá vàng đã giảm từ 365 USD/ounce xuống 287,5 USD/ounce. Nếu tính theo VND vàng đã giảm từ nghìn đồng/lượng 11,57 VND/USD ngày 2/1/1997 xuống nghìn đồng/lượng 12,292 VND/USD ngày 31/12/1997.Tức tại thời điểm 1997, giá vàng chỉ khoảng hơn 300 nghìn đồng 1 chỉ. Đây là mức giảm cao nhất kể từ năm nhân của sự sụt giá này bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng tiền tệ. Khi đồng tiền của các nước châu Á liên tục rớt giá, thế giới đã nhận ra đồng USD là một kênh trú ẩn an toàn. Do vậy, họ đã tìm mọi cách giảm dự trữ vàng để tăng cường thu mua đô vàng giai đoạn sau năm 1997 biến động như thế nào?Suốt giai đoạn 10 năm kể từ sau 1997, giá vàng thế giới biến động không ngừng. Có thể chia thành hai giai đoạn như sauGiá vàng từ năm 1998 đến 2000 vẫn tiếp tục giảmNgày 24 tháng 3 năm 1998, giá vàng tiếp tục giảm còn 278,7 USD/ounce. Như vậy, vào thời gian này giá vàng Việt Nam đang ở mức 3,617 nghìn đồng/lượng 12,980 VND/USD. Nghĩa là vào đầu năm 1998, một chỉ vàng có giá khoảng 362 nghìn thời điểm này, để sản xuất ra 1 lượng vàng phải tốn đến 315 đô la Mỹ. Trong khi chi phí bán ra thấp hơn nhiều chi phí sản xuất. Cộng thêm việc các ngân hàng nhà nước và các chủ đầu tư liên tục bán tháo vàng. Nhu cầu sử dụng vàng đã ít hơn 1000 tấn so với thời gian trước. Hơn một nửa số mỏ vàng trên thế giới đã thua lỗ và đóng ngày 6 tháng 7 năm 1999, Ngân hàng Anh đã bán 25 tấn vàng. Trong vòng 3 - 5 năm tiếp theo, ngân hàng Anh có kế hoạch bán tiếp 475 tấn vàng. Điều này kéo giá vàng xuống tiếp 10%, chỉ còn khoảng dưới 260 USD/ trường ảm đạm của vàng vẫn tiếp tục giảm và phẳng lặng trong gần hai năm tiếp vàng từ năm 2000 đến 2008 trở lại đà tăng trưởngKhi người ta bắt đầu tin rằng giá vàng có thể xuống đến 150 USD/ounce thì vàng đã chứng minh điều ngược lại. Từ tháng 4 năm 2001 đến tháng 8 năm 2005, đồng USD bắt đầu giảm từ 120 xuống còn hơn 80 điểm. Nguyên nhân đến từ “thâm hụt kép” ở Mỹ; Khủng bố ngày 11/9; sự trỗi dậy của đồng Euro; Tình hình bất ổn ở Trung Đông; sự vươn lên của châu Á,... Điều này đã tạo nên một dấu hiệu tích cực đối với vàng 9999 khi nó đã tăng giá đến 60% trong hơn 4 năm. Tuy vậy, giai đoạn tăng trưởng thần kỳ của vàng vẫn chưa kết thúc. Tháng 9 năm 2005, giá vàng đã vượt mức 450 USD/ounce. Mặc dù trong giai đoạn tăng này giá vàng vẫn biến động liên tục do các nhà đầu tư mua vào, bán ra liên tục. Nhưng nhìn chung, xu hướng của nó vẫn là tiếp tục tăng trong những năm tiếp vàng năm 1997 và bài học cho năm 2020Các nhà nghiên cứu cho rằng suy thoái kinh tế cũng có quy luật và chu kỳ của nó. Điều này đã được chứng minh khi 30 năm gần đây thế giới đã trải qua 3 cuộc khủng hoảng 1987, 1997, 2007. Nếu quy luật này là đúng thì 2020 có thể sẽ diễn ra cuộc khủng hoảng thứ 4. Từ đầu năm đến nay, dịch bệnh, bạo động, nổi loạn, dường như đang chứng minh tính hiện hữu của cuộc khủng hoảng mới. Vậy, giá vàng sẽ biến động như thế nào trong thời gian sắp tới?Những dấu hiệu chứng tỏ kinh tế thế giới 2020 đang trên đà suy thoáiCó thể nói, nguy cơ cho một cuộc khủng hoảng đã manh nha ngay từ giữa năm 2019. Khi đó, các nền kinh tế hàng đầu như Nhật, Trung Quốc, Mỹ, EU,... đều báo cáo tăng trưởng thấp. Tình trạng nợ công, thâm hụt ngân sách của các nước này cũng là điều đáng báo động. Tính đến cuối năm 2019, GDP toàn cầu trung bình chỉ có 2,9%. Kể từ sau khủng hoảng 2008-2009, tốc độ tăng trưởng thế giới mới thấp đến như đầu năm 2020, sự bùng phát của dịch Covid-19 đã giáng một đòn mạnh mẽ vào kinh tế toàn cầu. Tổng thư ký Liên Hợp Quốc - Antonio Guterres và các tổ chức tài chính lớn như IMF, Fed đều cảnh báo về cuộc suy thoái biệt, các chuyên gia đều cho rằng khủng hoảng lần này sẽ nghiêm trọng và khó khăn nhất. Nguyên nhân vìThế giới hiện tại đang có sự xung đột và chia rẽ sâu sắc Có thể kể đến như mâu thuẫn lợi ích, chiến tranh kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc; Xung đột chính trị ở châu Á và Trung Đông; Anh rút khỏi EU gây rạn nứt hệ thống chính trị đa phương,...Ngay tại nội bộ của mỗi quốc gia vẫn có những bất đồng đáng kể. Ví dụ như các cuộc biểu tình vì người da màu ở Mỹ; căng thẳng giữ Trung Quốc với Đài Loan, Hồng Kông,.Nền kinh tế toàn cầu đang tăng trưởng âm trong đại dịch. Trong khi tổng nợ trên thế giới đã gấp 3 lần GPD toàn cầu. Ngay cả khi các ngân hàng trung ương và chính phủ giảm lãi suất, tăng các gói cứu trợ thì việc phục hồi nền kinh tế không thể diễn ra trong một sớm một chiều. Hàng loạt doanh nghiệp đã tuyên bố phá sản, thị trường chứng khoán lao dốc thảm hại. Tình trạng thất nghiệp, nghèo đói diễn ra ngày càng nhiều. Chưa kể, trong mùa dịch việc giao thương giữa các nước cũng bị hạn chế nhất báo về giá vàng năm 2020Có một điều khác biệt khiến giá vàng năm 1997 và giá vàng năm 2020 biến động trái chiều nhau. Năm 1997, cuộc khủng hoảng tiền tệ chủ yếu diễn ra ở châu Á nên ít ảnh hưởng đến đồng USD. Do vậy, nó sẽ kích thích các nước bán vàng dự trữ để đầu cơ đồng tiền Mỹ. Phương châm lúc đó chính là “cash is king” - tiền mặt là năm 2020, khi đồng USD, đồng nhân dân tệ, giá dầu, giá chứng khoán đều xuống thấp thì vàng lại phát triển mạnh mẽ. Tuy có những biến động ngắn nhưng nếu theo dõi giá vàng hôm nay thường xuyên bạn sẽ thấy giá vàng 24k, vàng trong nước, vàng SJC, vàng 18k đều tăng đột biến. Ở nước ta, các thương hiệu như vàng Doji, vàng PNJ, vàng Bảo Tín Minh Châu cũng không nằm ngoài quy luật dù đã có mức tăng trưởng đáng ngạc nhiên kể từ đầu năm. Các nhà đầu tư vẫn rất lạc quan về tương lai của giá vàng. Các quỹ đầu tư quốc tế cũng tăng dự trữ vàng đáng sáng nay 3/6/2020, vàng đã đạt USD/ounce, cao hơn đầu năm 2019 35,6%. Khi tính từ năm 1997, giá vàng hiện tại đã cao hơn đến 600%. Nhiều chuyên gia dự đoán, nếu tương lai khi Fed buộc phải sử dụng lãi suất âm giá vàng sẽ phá kỷ lục USD/ là giai đoạn cực kỳ nhạy cảm của giá vàng. Nếu muốn đầu tư, bạn nên hoạch định rõ ràng mục tiêu. Rõ ràng trong giai đoạn này vàng vẫn là một kênh trú ẩn an toàn, là bảo hiểm rủi ro tốt nhất. Nhưng khi vàng ở đỉnh, nos cũng tiềm ẩn những nguy cơ nhất định. Khi có nhu cầu tìm hiểu, cập nhật giá vàng hằng ngày, bạn có thể xem thêm tại Jemmia!
36giới. Hơn nữa, trong thời gian 1980 - 1990, sản lợng vàng thế giới đã tăng tơng đối ổn định. Năm 1990 lần đầu tiên vợt hàng rào 2000 tấn lên 2023,1 tấntăng 959 tấn so với năm 1980; năm 1991 là 2661 tấn; năm 1992 là 2600 tấnvà năm 93 giảm 1,7% so với năm 1992. Do đó góp phần làm giá vàng tơng đốiổn định trong thời gian kỳ từ năm 1996 đến nay, có thể nói đây là thời kỳ có nhiều biếnđộng mạnh về giá vàng nhất. Trớc những tin tức đầy bi quan về hoạt động bánhàng dự trữ của các ngân hàng trung ơng trên thế giới cùng với khuynh hớngrõ ràng của các nhà đầu t thiên về thị trờng. Chứng khoná là những yếu tố tạonên xu hớng suy yếu giá vàng làm cho giá vàng "rớt" xuống dới mức 300USD/ounce. Bớc sang năm 1997 giá vàng đã hạ xuống mức thấp nhất kể từ 12năm qua vào thời điểm tháng 7/1997 và phổ biến ở mức 315 - 139 USD/ nguyên nhân do các ngân hàng trung ơng của nhiều nớc thành viên EUtăng cờng bán vàng ra để đối phó với sự gia tăng bởi chi ngân sách nhằm cảithiện tình hình tài chính của nớc họ trớc khi thực hiện liên minh tiền tệ. Ngânhàng của các nớc nh Thuỵ Sỹ, Nam Phi, ôxtraylia cũng bán vàng để tăng cờngtiềm lực ngoại tệ, chuyển sang đầu t ở các thị trờng tài chính có lợi nhuận caohơn. Bên cạnh đó cuộc khủng khoảng về tài chính tiền tệ ở khu vực Châu á từđầu tháng 7 đã ảnh hởng lớn đến nhu cầu tiêu thụ vàng của khu vực. Có thểnói năm 1997 là "năm đen tối nhất" đối với ngành vàng thế giới kể từ gần 2thập kỷ qua. Đến ngày 6/1/1998 giá vàng tại Luân Đôn xuống tới mức thấp kỷlục kể từ hơn 18 năm qua ở hai nớc 281,65 USD/ tháng đầu năm 2001 giá vàng thế giới ở mức trên dới 275USD/ounce giá vàng trong nớc chỉ xoay quanh mức đồng/chỉ. Saumột thời gian dài duy trì ở mức thấp trung bình khoảng 270 - 280 USD/OZ,vài ngày đầu tháng 4, giá vàng quốc tế tăng và biến động liên tục trongkhoảng từ 294 - 306,35 USD/OZ. Ngày 3/4, giá vàng kỳ hạn tháng 6 trên thịtrờng thế giới đã tăng 2,8 USD lên mức 307 USD/OZ, giá giao ngay ở mức306,35 USD/OZ tơng đơng đồng/chỉ. Nguyên nhân chính do lãisuất USD duy trì ở mức thấp trong một thời gian dài, việc đầu t vào USD 37không mang lại hiệu quả cao, vì vậy nhiều nhà đầu t đã quyết định chuyểnsang đầu cơ vàng và bù đắp quỹ vàng do đã bán trớc đây. Thêm nữa, thị trờngvàng Nhật Bản thời gian qua đã mua vào với khối lợng khá lớn để bảo toàn giátrị do đồng Yên mất giá. Đặc biệt, một số công ty khai thác vàng cắt giảm sảnlợng và ngừng bán vàng kỳ những đợt bán vàng ồ ạt của các ngân hàng trung ơng NHTƯ, gầnđây đã có những thông tin về việc một số NHTƯ nâng tỷ lệ dự trữ vàngNHTƯ Trung Quốc do tăng mức dự trữ vàng lên 500 tấn. Một số NHTƯ hoànthành kế hoạch bán vàng nh NHTƯ Anh đã bớt đợt vàng cuối cùng trong chơng trình nhằm cắt giảm 58% dự trữ bằng vàng, do vậy nguồn cung vànggiảm, gây sức ép tăng giá vàng. Từ sau vụ khủng bố 11/9/2001 giá vàng tăngvọt lên đến 293,25 USD/ounce và từ đó trở đi giá vàng liên tục biến độngmạnh và biến động thất thờng. Trớc Tết một tuần, giá vàng thế giới bị tăngmạnh lên tới 363,5 USD rồi 363,7 USD/ounce. Tiếp đến, ngày 27/1/2003, giávàng thế giới tăng lên tới 372,75 USD/ounce. Trong ngày 5/2/03 giá vàng thếgiới tăng thêm 4 - 8 USD/ounce; giá cuối ngày ở một số thị trờng lớn lên tớimức kỷ lục 384 USD/ounce. Nhng sang ngày 6/2/03 lại giảm 9-20 USD/ouncecòn 369 USD/ Thị trờng giao sau golden future marketĐây là thị trờng mua bán vàng cho thời điểm ở tơng lai, nhng lại ký hợpđồng thoả thuận ở thời điểm hiện tại về giá cả và chất lợng vàng sẽ giao sau ởthời điểm đã định thời điểm tơng lai. Tới thời điểm ấy, nếu giá vàng cao hơngiá đã định, thì ngời mua đợc hởng chênh lệch giá và ngợc lại thì ngời bán đợchởng chênh lệch giá. Do vậy ngời ta gọi thị trờng vàng giao chất đây là thị trờng "cá cợc" giá vàng ở thời điểm qui ớc trong tơng lai vì ngời bán, lúc bán, đôi khi chẳng có lấy 1 chỉ vàng trong tay nhngdám gạ bán hàng tấn vàng. Vì vậy cũng có thể gọi "golden future market" làthị trờng "vàng giấy". Thị trờng này thờng diễn ra ở các sở giao dịch chứngkhoán, đặc biệt là ở các thị trờng chứng khoán lớn. 38Trên thế giới thị trờng vàng giao sau có từ báo, đặc biệt vào những thờigian giá vàng dao động không cao và tơng lai cha rõ ràng. Các nhà quan sátcủa hội đồng vàng thế giới WGC nhận xét rằng, mỗi khi thị trờng vàng kimloại giảm sút, giá vàng lên xuống thất thờng, thì thị trờng vàng giao sau lại tin tức hiện có, thì doanh thu mua bán vàng giao sau bấy lâu nayngày càng tăng. Ba trung tâm mua bán vàng giao sau vào loại nhiều hiện naylà Tocom Tokyo, Commezee Ne York, và Saophaolo Brazin. ở đay, thị trờng Commezee chủ yếu mùa bán vàng giao sau theo các hợp đồng lãi suấtchiết lợng vàng giao sau mua bán trên thị trờng nói chung bị thay đổituỳ theo tình hình biến động giá vàng kim loại. Vàng kim loại bấy lâu nay doNam Phi và các nớc công nghiệp phơng Tây cung cấp, gần đây lại có Ngatham gia. Năm 1993, tổng nhu cầu mua bán vàng giao sau của thế giới tăngkhoảng 60% so với năm 1994, hoạt động mua bán vàng giao sau lại bắt đầu phục hng, nhngtổng doanh thu mua bán kể cả các hợp đồng mua bán vàng giao sau lãi suấtchiếu khấu chỉ tăng 3%. Tăng nh vậy chủ yếu là do hoạt động của thị trờngTocom ở Nhật Bản mạnh lên, còn ở thị trờng Commezee ở Mỹ trong 6 thángđầu năm 1994 thì sức mua lại bị giảm sút, làm tổng lợng hợp đồng mua bán cảnăm giảm 5%.Hợp đồng tơng lai cung cấp một công cụ rẻ và hiệu quả cho việc đầu cơvào giá vàng. Chi phí giao dịch thấp và rủi ro nền tảng chênh lệch về lợinhuận giữa giá giao ngay và tơng lai là nhỏ. Bán non cũng dễ dàng nh muakỳ hạn. Thị trờng tơng lai có thể đợc xem nh một chỉ số về độ nhạy của thị thập kỷ qua khối lợng giao dịch tơng lai vì vàng trên thị trờngCommezee đợc tính theo hợp đồng, không có thay đổi lớn. Nó không bị tácđộng bởi sự tăng lên mạnh mẽ về hoạt động dự phòng của nhà sản xuất. 39Nhng đến cuối năm 2002 đầu năm 2003 do tình hình kinh tế - chính trịthế giới có nhiều biến động, nền kinh tế Mỹ vẫn bị suy yếu kéo dài và chaphục hồi. Một số tập đoàn kinh doanh lớn của Mỹ phá sản. Nguy cơ xảy racuộc chiến tranh Irắc ngày càng trở thành hiện thực. Tình hình CHDCNDTriều Tiên nóng lên sau khi Mỹ ngừng cung cấp nguyên liệu, nớc này khởiđộng lại các nhà máy điện nguyên tử, đồng thời tuyên bố rút khỏi Hiệp ớc cắtgiảm vũ khí hạt nhân, xung đột giữa Palestin và Israel cha lắng dịu. Các nhàđầu t sợ rủi ro về tỷ giá mang USD chuyển sang mua lo sợ chiến tranh và các nhân tố trên nên rất nhiều hợp đồng muabán tơng lai về vàng đã đợc ký kết, lên đến mức kỷ lục, khoảng 1000 hợpđồng. Kết quả giá vàng tăng vọt, vợt lên cả mức cách đây 5 trờng vàng trên thế giới hiện nayTrên thị trờng thế giới, trong suốt thập niên 90 của thế kỷ trớc, giá vàngtơng đối ỏn định và ở mức thấp. Đến tháng 8/2001, giá xuống tới mức thấpnhất mức đáy, chỉ còn 262 - 273 USD/ounce. Còn ở trong nớc, giá vàng ởmức đáy đã từng xảy ra vào tháng 4/2001, khi đó giá vàng chỉ còn Song từ tháng 9/2001 đến nay, cả giá vàng trên thế giới và tất nhiêncả ở thị trờng trong nớc liên tục tăng nhân chủ yếu của tình hình trên là do cuộc khủng bố ngày11/9/2001 ở nớc Mỹ. Tiếp đến là những bất ổn tại Trung Đông, đặc biệt Mỹtấn công và Iraq và nguy cơ khủng hoảng trong khu vực này, cũng nh nhữngđe doạ khủng bố của mạng lới AI Queada Từ cuối năm ngoái, khi Mỹ đe doạ về khả năng tấn công Iraq, giá vàngđã tăng liên tục đến mức chóng mặt. Thế nhng, từ tháng 3/2003, khi các nhàđầu t tin chắc vào khả năng xảy ra cuộc chiến Iraq, thì giá vàng trên thế giớilại tiếp tục giảm. Và khi cuộc chiến nổ ra với diễn biến phức tạp thì giá vànglại trong trạng thái thất vàng tại Hồng Kông ngày 23/1 là 364,5 USD, tại thị trờng NewYork giá vàng giao ngay hôm 26/1/2003 lên đến 269,1 USD/ounce, tăng hơn 4030% so với cùng kỳ năm ngoái và tăng 14% so với cách đó 2 tháng. Giá vànggiao kỳ hạn thậm chí còn tăng lên trên 370 USD/ lúc 15h17' giờ Việt Nam ngày 20/3 giá vàng giao ngay tại LuânĐôn ởmức 335,8 USD/ounce so với 336,75 USD/ounce ngày 19/3/2003 vànggiao ngay vào lúc đóng cửa tại Hồng Kông giảm 3 USD xuống còn 336USD/ USD giảm xuống 1,063 Euro sau khi đã tăng lên mức cao nhấttrong 2 tháng qua là 1,0535 Euro khi có tin Mỹ bắt đầu bắn phá thủ đô 2 ngày đầu khi liên quân Anh - Mỹ bắt đầu chiến dịch tấn côngxâm lợc Iraq, những thông báo từ nhà cầm quyền Mỹ cho rằng cuộc chiếntranh Iraq sẽ nhanh chóng kết thúc khiến các nhà đầu t trên thị trờng chứngkhoán lớn của thế giới lạc quan. Các chủ sở chứng khoán trên thị trờng. Chứngkhoán Wall Street của Mỹ tăng mạnh dẫn đến việc các nhà đầu t bán vàng làmcho giá vàng giảm mạnh. Tại phiên giao dịch thứ 6 ngày 21/3, giá vàng ở NewYork dừng ở mức 325,50 USD/ tin chiến sự ở Iraq sẽ kéo dài, vào tại phiên giao dịch ngày 25/3 giávàng đã bất ngờ tăng mạnh, bình quân tăng 4 USD/ounce trên các thị trờng thếgiới so với ngày đầu tuần 24/3. Tuy nhiên từ cuối phiên giao dịch ngày 25/3,giá vàng trên các thị trờng thế giới đã có khuynh hớng giảm trở lại, dừng ởmức từ 328 - 329 USD/ounce trong ngày 26/ ngày 4/4 giá vàng trên thị trờng thế giới đột ngột rớt mạnh xuốngtới 325 USD/ounce sau đó ổn định ở mức 324 USD/ounce. So với đầu tuần,giá đã giảm xuống 15 USD/ounce. Theo Reuters, nguyên nhân của việc giávàng rớt xuống mấy ngày qua là do liên quân đã tiến đến rất sát Baghdadchuẩn bị cho chiến dịch quân sự lớn nhằm kết thúc chiến tranh. Giới đầu t vìvậy thay vì nắm giữ vàng phơng tiện dự trữ an toàn khi môi trờng kinh tế bấtổn định đã chuyển sang tích trữ chứng khoán và tiền tệ để kiếm lời nhiều nhận định của Merlin Johnson, nhà phân tích của ngân hàng HSBC, "cóvẻ nh hiện tại, động lực duy nhất kìm hãm việc rớt giả là nhu cầu mua vàngtrang sức". Trong nớc các công ty vàng bạc đá quý điều chỉnh giá khá nhạy so 41với giá thế giới. Chiều 3/4 vàng SJC 9999 bán ra là đồng/chỉ, sáng 4/4là đồng/ vàng thế giới chiều 7/4 giảm đến mức thấp nhất tính từ tháng12/2002 đến nay còn 320 USD/ounce giảm 6 USD so với cuối tuần trớc. Giávàng SJC của Công ty vàng bạc đá quý Thành phố Hồ Chí Minh sáng 7/4 là6,26 triệu đồng/lợng giảm đồng so với giá ngày 5/4, giá vàng SJCgiảm đến đồng/lợng - đây là mức giảm giá lớn nhất kể từ khi vàng bắtđầu giảm giá đến nay. Tại Hà Nội, Đà Nẵng và Cần Thơ vàng SJC dao động từ6,23 - 6,26 triệu đồng/lợng do tốc độ điều chỉnh giá theo diễn biến của giávàng thế giới chậm hơn. Nhiều cửa hàng vàng tại Thành phố Hồ Chí Minh chobiết dù giá vàng giảm mạnh nhng sức mua vẫn rất thấp trong khi lợng vàngngời tiêu dùng mang đến bán tăng cao. 42Bảng 12 Giá vàng trên một số thị trờngUSD/ounceNgày2/1/20036/2/20033/3/20038/3/200315/3/200325/3/20031/4/20038/4/2003New York346,80370,00350,30357,50337,40330,50336,80325,30Lon Don346,10369,90347,70356,26337,40330,05336,05322,85Zurich346,10369,90347,70356,40337,40330,23335,60321,00Hongkong346,00369,70347,40356,70336,90331,20337,40321,354. Quan hệ giữa vàng và đồng đô la ra, không phải chỉ có đồng đô lay Mỹ USD mới có quan hệ vớivàng, mà nhiều đồng tiền trong số trên 180 đồng tiền của thế giới hiện nayđều đã trải qua một giai đoạn lấy vàng làm bản vị tiền vàng, thể hiện ở hàm lợng vàng đợc quy định ở mỗi đồng tiền, chỉ có khác là hàm lợng ấy nhiều hayít là phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc nay đại bộ phận các giao dịch quốc kể cả buôn bán, đi lại, thamquan du lịch nớc ngoài, các dịch vụ tài chính và ngoại giao đ ợc thể hiệnbằng USD với tỷ lệ áp đảo 95% kim ngạch ngoại thơng của các nớc OPEC,85,5% của các nớc Mỹ La-tinh; 70,5% của Nhật, 40,5% của các nớc Châu quan hệ tín dụng quốc tế, đồng USD cũng chiếm tỷ lệ cao, tới 51%,trong khi đó đồng Yên Nhật chỉ chiếm 10%; đồng France Pháp chiếm 9,5%,đồng Mark Đức - 8,87%, đồng Sterling Anh - 6,5%.Các nhà kinh tế ớc tính hiện nay vào khoảng trên 2000 tỷ USD đang lenlỏi hầu khắp các thị trờng chứng khoán, thị trờng vàng và tiền tệ lớn nhỏ củathế giới. Trong đó khoảng 200 tỷ USD tiền mặt và trên 2000 tỷ USD là tiềnghi rõ trên các tài khoản của các ngân hàng và tiền tín dụng gọi chung là đô laChâu Âu. Còn trên đất Mỹ, có khoảng 4000 tỷ USD đang lu hành, kể cả tiềngiấy, tiền kim loại, tiền gửi tiết kiệm các loại. Do vậy đồng USD nhà là đồngtiền quốc gia, vừa là đồng tiền quốc tế. 43Mối quan hệ này đợc bắt đầu sau 3 năm Mỹ thắng lợi trong cuộc chiếntranh giành độc lập. Ngày 2/4/1972 quốc hội Mỹ ban hành luật công nhậnđồng USD là đồng tiền chính thức lu hành trong toàn Liên bang, theo chế độ"song kim bản vị", đang thịnh hành. Hàm lợng đơn vị đô lan ban đầu ấn địnhlà 24,75 hạt grain vàng hoặc 317,25 hạt bạc, theo tỷ lệ 1 vàng = 15 bạc Hạtđơn vị đo lợng kim khí quý = 1/480 ounce = 0,0648 gram. Giấy bạc lu hànhvới hàm lợng vàng bạc theo luật định có thể chuyển đổi thành vàng/bạc. Trongthời kỳ nội chiến, 1861 - 1865 cho đến 1879 nền kinh tế Mỹ sa lầy trong khókhăn. Chế độ chuyển đổi bị huỷ bỏ. Từ năm 1873 đến 1933, Mỹ áp dụng chếđộ "đơn kim bản vị", lấy vàng làm bản vị cho đô la. Gold coin standard nh ởcác nớc Châu Âu, đồng thời lập lại chế độ không hạn chế đổi tiền giấy lấyvàng. Bắt đầu từ cuối tháng 1/1934, tiếp theo cuộc đại khủng hoảng kinh tếthế giới 1929 - 1933 và thực hiện chính sách kinh tế mới New Deal của tổngthống Roosevelt, Mỹ chuyển sang chế độ "Bản vị vàng thoi" cho đến năm1945 chiến tranh thế giới lại một lần nữa làm cho nền kinh tế tiền tệ các nớctham chiến chao đảo. Chỉ còn kinh tế Mỹ lớn mạnh. Hội nghị 44 nớc tạiBretton Woods ngày 1/7/1944, với cố gắng thiết lập một hệ thống tiền tệ thếgiới thống nhất, ổn định đã cùng nhau thoả thuận áp dụng chế độ "Bản vị vànghối đoái Gold exchange Standard, đợc các chuyên gia kinh tế Anh đề xuất từnăm 1922 tại hội nghị Genova ý. Việc chuyển đổi đồng tiền quốc gia thànhvàng từ lâu đã bị loại trừ, nhng theo chế độ này, dự trữ ngoại tệ của các nớc cóthể đổi thành vàng thông qua đồng đô la Mỹ, trên cơ sở giá 1 ounce = 35 đôla. Vai trò của đồng đô la vốn đã có nhiều thế mạnh, càng đợc đề cao trong hệthống tiền tệ thế giới, đa lại cho Mỹ nhiều lợi thế trong quan hệ kinh tế với nớc ngoài. Nhng dần dà về sau, Mỹ gặp rất nhiều khó khăn trong việc ổn địnhgiá vàng ngày càng lên cao trên thị trờng. Trong những năm của thập kỷ kinh tế hậu chiến từng bớc đợc phục hồi, các nớc phơng Tây đã vơn lênnắm đợc lợng dự trữ Đô la ra vàng. Mỹ đã phải trả giá khá đắt về việc đó. Chỉkể năm 1967, khi tổng thống Johnson tuyên bố tiếp tục giữ vững đồng giá hốiđoái vàng - đô la ở mức 35 USD/ounce, Mỹ phải bán ra trên 3,5 tỷ SD vàng
giá vàng năm 1996