TÙY BÚT VÀ TẢN VĂN VĂN BẢN THÔNG TIN Câu 1: Phần kết văn bản Ca Huế trên sông Hương (Ngữ văn 7 t2), tác giả Hà Ánh MInh viết: Em hãy làm sáng tỏ nội dung trên bằng một bài văn nghị luận. Lớp 7 Ngữ văn Văn mẫu lớp 7. 3. 0. q52yHz. Chào bạn đến với danh mục "Hà Nội" trên trang web - Nơi lưu trữ những bài viết hay về Hà Nội, như Thơ viết về Hà Nội lãng mạn; Tản mạn về Hà Nội hay, nhiều cảm xúc; Những status ngắn về Hà Nội ý nghĩa,. Văn Thơ & Status Viết Về Hà Nội Hay, Ý Nghĩa. Những bài thơ hay nói về Mùa Đông ở Hà Nội với sự cô đơn, buồn Tuyển chọn những bài thơ nói về Mùa Đông ở Hà Nội với sự cô đơn, buồn bã, nhớ người yêu đang ở xa. Thơ Mùa Đông đang về với Thủ Đô. Chùm thơ Hà Nội Mùa Đông hay đặc sắc, tự sáng tác luôn nha bà con Tuyển chọn những bài thơ viết về Hà Nội Mùa Đông thật hay và cảm xúc. Khung cảnh Hà thành khi vào Đông như thế nào nhỉ? Mời bạn bấm xem nè! Chùm thơ miêu tả Cúc Họa Mi ở Hà Thành với cái lạnh của mùa Đông Những bài thơ miêu tả vẻ đẹp của hoa Cúc Họa Mi ở Hà Nội trong không gian giá lạnh của Mùa Đông. Những vần thơ cúc họa mi hay nhất! Tản Mạn Cúc Họa Mi gọi Đông về với phố Hà Nội Tản mạn về hoa Cúc Họa Mi gọi đông về trên phố Hà Nội hay. Bài viết nói lên cảm xúc khi ngắm những chiếc xe chở cúc họa mi trên khắp các ngã đường ở HN. Chút tản mạn về Mùa Thu Hà Nội qua những câu ca, lời thơ hay Chút tản mạn về Mùa Thu ở Hà Nội qua những vần thơ, câu ca hay. Bài viết ý nghĩa về Hà Nội Mùa Thu với những câu nói hay, đầy tâm trạng. 1001 bài thơ 8 chữ viết về Hà Nội yêu thương, ca ngợi thủ đô HN Tuyển chọn những bài thơ 8 chữ viết về Hà Nội yêu thương với những lời thơ ca ngợi hay nhất. Thơ bát ngôn nói về Hà Nội chọn lọc, tự sáng tác. Chùm thơ Hà Nội Mùa Thu hay, tình thơ lãng mạn khi Thu về với Thủ đô Tuyển tập những bài thơ Hà Nội Mùa Thu hay với những sáng tác mới nhất. Chùm thơ tình lãng mạn đặc sắc khi Mùa Thu về với thủ đô Hà Nội. Thơ tháng 5 Hà Nội hay, chùm thơ Hà Nội mùa Hạ giữa độ Tháng Năm Tuyển chọn những bài thơ Tháng 5 Hà Nội hay. Chùm thơ viết về Mùa Hạ ở Hà Nội giữa độ Tháng Năm ngập tràn cảm xúc với những sáng tác mới. Thơ Tháng Tư Hà Nội hay, loạt thơ tình viết về Hà Nội khi tháng 4 về Tuyển chọn những bài thơ Tháng Tư Hà Nội hay. Chùm thơ tình viết về Hà Nội khi tháng 4 về với những sáng tác mới nhất, đầy tâm trạng và cảm xúc. Tự Sự Nhớ Về Hà Nội Bài viết tự sự nói lên nỗi nhớ về Hà Nội của tác giả trong những năm còn nhiều khó khăn. Đó là tình cảm chân thành gửi về Hà Nội. Viết về Ô Quan Chưởng cửa ô duy nhất còn tồn tại ở Hà Nội Đây là bài viết hay và chi tiết nói về Ô Quan Chưởng - tên cửa ô duy nhất còn tồn tại ở Hà Nội, là dấu vết của thành Thăng Long xưa. Những chùm thơ, tản văn, status viết về Hà Nội mới hơn sẽ được chúng tôi cập nhật tại đây để các bạn tiện theo dõi và tìm đọc. Xin cám ơn độc giả đã ủng hộ trong nhiều năm qua.. Bộ ba tác phẩm tản văn “Từ xa Hà Nội”, “Xa rồi ngày xanh”, “Chỉ còn tuyết trắng” của tác giả Mai Lâm với nỗi day dứt của một người sống xa quê. Sách do Nhà xuất bản Văn học xuất bản và phát hành. Gần một trăm tản văn của Mai Lâm trong ba tập sách là sự lưu luyến day dứt của người thương nhớ Hà Nội khôn nguôi, với những hồi ức về nơi xa lắm và thời xa lắm mà ngay cả người Hà Nội nay cũng không biết hoặc không còn nhớ đến nữa. Trong mỗi câu chữ ấy luôn thấp thoáng nỗi buồn của kẻ thấy nơi đâu cũng chẳng phải hoàn toàn là của mình, dù xứ người hay quê nhà. “Chỉ còn tuyết trắng” một trong ba tập tản văn của tác giả Mai Lâm. Bên cạnh đó, Mai Lâm cũng đã “cày xới” vào “địa hạt” một thể loại thông thường là chân dung nhưng theo một cách khác thường. Đó là phác họa khuôn mặt của những người rất đỗi bình thường, thay vì nhắc đến chân dung là phải viết về người nổi tiếng. Các gương mặt đời thường của bạn bè thân quen như Phương nâu, Sơn lim, Châu sầu, Cường lừa, Minh thứ, Cương râu… đã vì thế mà dần dần hé lộ đời sống bộn bề phong phú cả nơi xứ ta lẫn xứ người. Cái duyên viết chân dung của Mai Lâm khiến mỗi gương mặt dù rất đỗi bình thường cũng khiến độc giả phải bật cười, và sau mỗi chân dung, không chỉ là số phận, nước mắt, mà còn là bức tranh toàn cảnh của cuộc sống người Việt tại hải ngoại qua rất nhiều mảnh ghép của thể loại tản văn. Các tản văn về cái thú ăn chơi cũng là một mảng thú vị trong bộ ba tác phẩm của Mai Lâm. Chúng gợi nhớ không khí lãng tử, sành điệu một thời của trai Hà Nội. Qua các tản văn “Những giấc mơ đề”, “Khổ vì chơi”, “Thú chơi đồng hồ cổ”, “Quý vật tầm quý nhân”, “Thuê đồ chơi”…, độc giả đôi phần kinh ngạc rằng vì sao chơi thôi mà cũng phải nhọc thế, dụng công thế. Tác giả Mai Lâm là một gương mặt mới của làng văn dù tuổi đời không còn trẻ. Ông định cư ở Cộng hòa Liên bang Đức từ năm 1987. Ông đồng thời là một nhạc sĩ với các album đã được phát hành rộng rãi ở Việt Nam như “Hà Nội mùa thu sớm”, “Từ xa Hà Nội”… Ba tập tản văn của Mai Lâm được in lần lượt năm 2014, 2015 và 2016, nhưng đây là lần ra mắt đầu tiên của tác giả trước công chúng. Nguồn TT Cho đến thời điểm này có thể nói Đỗ Phấn là một trong hai người say mê với Hà Nội nhất trong thể loại tản văn. Nói như thế là vì bên cạnh họa sĩ viết đến hơn 20 tác phẩm về Hà Nội, trong đó gần đây có 4 tản văn, còn có một nhà văn khác số lượng tản văn cũng nhiều là Nguyễn Trương Quý với các tác phẩm Ăn phở rất khó thấy ngon, Tự nhiên như người Hà Nội, Hà Nội là Hà Nội, Mỗi góc phố một người đang sống, Còn ai hát về Hà Nội… Gần 1000 trang viết về Hà Nội của Đỗ Phấn chia ra bốn cuốn sách Ngồi lê đôi mách với Hà Nội, Ngẫm ngợi phố phường, Bâng quơ một thời Hà Nội và Đi chơi bờ hồ… Một con người sinh ra ở Hà Nội, sống một đời gắn bó buồn vui với Hà Nội, yếu quý Hà Nội hết lòng nên nói, kể, viết về Hà Nội cả đời cũng không hết cuốn tản văn của tác giả khi thì chia mục Ăn, Chơi, Ở trong Ngồi lê đôi mách với Hà Nội; Nếp cũ nhà xưa, Ẩm thực lưu kí, Đi và nghĩ Đi chơi bờ hồ…; Quà quê quà phố, Sắc màu chớm đông, Biển trời nhung nhớ Bâng quơ một thời Hà Nội. Có thể nói khái quát là tác giả đã viết về ba vấn đề lớn ăn, ở, chơi của người Hà Nội. Tất nhiên điều đó chỉ có tính chất tương đối như trong bất kì việc phân loại nào. Và tất cả những gì liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của một thành phố nghìn năm tuổi, một “đô thị đáng sống” đều được tác giả nâng niu, trân trọng làm sống lại trên những trang viết của thể nói không quá rằng tản văn của Đỗ Phấn đã làm nên một bảo tàng sống về Hà Nội một thời bao cấp vất vả thiếu thốn cho đến thời mở cửa phát triển bung ra. Từ một Hà Nội gồm những ngôi làng lớn yên bình, vỉa hè nền đất đầy cỏ xanh, giao thông chủ yếu bằng xe đạp và tàu điện thành một thành phố Hà Nội sôi động với những tòa nhà cao ngất, bạt ngàn xe máy ô tô. Trong cái bảo tàng khổng lồ đó, có thể tìm thấy rất nhiều “hiện vật” mà ngày nay thể hệ 8x hay 9x chỉ có thể nghe kể và đọc trong sách báo, xem trong những tranh ảnh, phim tài liệu. Ví như bia hơi Cổ Tân lấy nắp hầm cá nhân mới đúc chưa khô làm bàn, nước giải khát “si-rô” là món quà ao ước của trẻ con thời đó, món “chè đỗ đen đá” là món ưa thích và phổ biến với mọi người. Rồi thì đào hầm, hố ở thành phố. Những khoanh bê tông làm hầm trở thành khoanh thành giếng thời Hà Nội thiếu nước sạch. Rồi chuyện về loại cá biển cắt ô tem phiếu, chè chén vỉa hè đồng giá 5 xu,…Hà Nội không ngừng phát triển và thay đổi. Phố chuyển nghề. Mọi thứ cũng thay đổi theo. Có những thứ chỉ còn trong hoài niệm như vòi nước công cộng, chạn bát, kính coong xe đạp phố, “cán bộ cặp lồng”, cà cuống,… một thế giới biến mất đồ chơi cho trẻ em, và “mai một hào hoa”. Nhưng Hà Nội cũng có thêm những cái mới, những khu nhà cao tầng hiện đại, những siêu thị, những cột đèn cao áp, những công viên… Cái ăn, cái mặc của Thủ đô nghèo khó quần thâm, tem phiếu, mì sợi, bo bo một thời giờ đã lùi sâu vào dĩ tôi, Đỗ Phấn luôn say mê vẻ đẹp của Hà Nội - vẻ đẹp ngày xưa và cả những vẻ đẹp bây giờ. Nhưng nhà văn Đỗ Phấn viết về Hà Nội với cả vẻ đẹp và vẻ chưa đẹp của nó, sự sang trọng và sự nhếch nhác của nó. Đó là một Hà Nội nhôm nhoam đan cài cái đẹp, cái xấu, cái văn minh, cái lạc hậu, cái xô bồ, cái điềm đạm. Dù nó thế nào thì Đỗ Phấn vẫn yêu quý, tự hào về nó. Tất nhiên, yêu quý thì sẽ xót xa, sẽ buồn bã khi cái đẹp bị mất đi. Nhưng cũng sẽ vui mừng, phấn khích vì những vẻ đẹp mới của đô thị hiện đại xuất hiện. Đỗ Phấn đã đúng khi viết rằng “Thay đổi vì cần phát triển là việc tất yếu” Miền đất nhung nhớ. Những tản văn của Đỗ Phấn chính là một bảo tàng lưu giữ những kỉ niệm sống của Hà Nội với những buồn vui một thuở. Đó là giá trị của tác phẩm văn học chân Phấn viết về những gì đã thấy, đã nghe, đã trải nghiệm trong suốt cuộc đời mình từ khi là một cậu bé có trí nhớ cho đến khi thành ra “cánh già” hay hoài niệm. Không những thế, tác giả còn là một người chịu đọc, đọc đủ thứ như trong một trả lời phỏng vấn đã bộc bạch “Tôi đọc gần như tất cả những gì có chữ quanh mình. Kể cả những tờ hướng dẫn sử dụng thuốc chữ nhỏ li ti”. Có lẽ ông bố làm Tổng biên tập nhà xuất bản Thanh Niên đã cung cấp cho tác giả không ít sách vở. Bởi thế mà trong những bài viết ngăn ngắn, Đỗ Phấn đã có thể làm người đọc thích thú về những hiểu biết “cụ tỉ” của mình. Chẳng hạn nhiều thứ, Đỗ Phấn có thể viết “lược khảo” hoặc không có tên lược khảo thì cũng là “biên niên”, hay hành trình. Ví như Lược khảo về quả cà, Xà phòng biên niên, Chậu thau lược khảo, Hành trình quà vặt… Những món ăn thức uống hay sự vật, đồ dùng cũng đều có nguồn gốc, lịch sử, chẳng hạn Bia hơi vỉa hè, Bún chả Hà Nội, Cà phê giải khát, Chè chén 5 xu, Cầu Long Biên, Chợ Giời, Đèn dầu, Đèn bão,… Có thể bắt gặp những chi tiết lịch sử thú vị, rõ ràng mà có khi không biết có thể tra cứu ở cuốn sách nào. Chẳng hạn, chiếc đồng hồ công cộng có chuông đầu tiên ở Hà Nội ra đời cùng với việc xây dựng Nhà thờ Lớn vào năm 1886 Chuông đồng hồ. Người Hà Nội chỉ thực sự dùng điện lưới kể từ khi nhà máy điện Yên Phụ do người Pháp xây dựng khánh thành năm 1932 Cột đèn một thuở. Tìm theo dấu vết khảo cổ thì thấy chiếc đèn dầu có mặt ở Việt Nam từ thời văn hóa Phùng Nguyên hậu kì đồ đá mới Đèn dầu. Tàu hỏa hơi nước lần đầu tiên có mặt ở Việt Nam là vào năm 1881 khi người Pháp xây dựng tuyến đường sắt Sài Gòn- Mĩ Tho dài 70 km.[…] Tàu hỏa hơi nước biến mất từ năm 1993 Tu tu xình xịch. Có thể phỏng đoán chiếc bánh mì đầu tiên có mặt ở Việt Nam vào năm 1533 đời Lê Trang Tông. Nó hẳn là phải được giáo sĩ I-nê-khu Ignacio? mang theo khi đến Việt Nam truyền giáo Bánh mì. Vòi nước công cộng ở Hà Nội phải ra đời sau khi nhà máy nước Yên Phụ đi vào hoạt động năm 1896 Vòi nước công cộng. Chợ Hàng Bè chính thức giải tán vào năm 2010 khi kỉ niệm 1000 năm Thăng Long Thịt luộc mắm tép. Internet đến Việt Nam từ quãng hai chục năm trước đây do tay giáo sư đại học người Úc tên là Rob Hurle mang vào Thời của soi mói,…Để cho những trang viết của mình thêm sinh động, tác giả đã huy động một số lượng không nhỏ những ca từ, tục ngữ, thành ngữ và đặc biệt là thơ ca từ dân gian cho đến hiện đại của các nhà thơ nổi tiếng. Lời văn của tác giả thanh thoát, giàu nhịp điệu, hình ảnh tự nó đã mang chất thơ. Thêm những câu thơ trích dẫn hợp lúc, hợp cảnh càng làm cho bài viết như một món ăn ngon kèm thêm với gia vị thích hợp càng thêm hấp dẫn. Nhắc đến kem, Đỗ Phấn nhắc bài hát nhại về kem. Nói chuyện “Cối chày tản mạn” thì dẫn ca dao về nhịp chày Yên Thái, dẫn thơ của Nguyễn Bùi Vợi, của Nguyễn Khuyến về việc giã gạo, giã trầu. Kể chuyện “Bữa rựơu nhớ đời” thì nhắc đôi câu thơ của Vũ Hoàng Chương. Viết “Bạn với rác” thì dẫn thơ Nguyễn Khoa Điềm “…Xả rác ở các nhà xuất bản nhiều đến vậy/ Mà được gì cho cuộc sống hôm nay?”. Bàn về “Chợ Giời” thì nhắc đến thơ về chợ Trời Hương Tích của Hồ Xuân Hương, của Nguyễn Khuyến. Viết về “Béo và Gầy” thì dẫn thơ Nguyễn Khuyến “Chẳng gầy chẳng béo chỉ làng nhàng”. Viết “Giấc mộng làng” dẫn thơ Bùi Giáng. “Miền đất nhung nhớ” dẫn ca từ của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, thơ của Bùi Thanh Tuấn được nhạc sĩ Trương Quý Hải phổ nhạc trong ca khúc “Hà Nội mùa vắng những cơn mưa”. Viết “Lụa” thì dẫn thơ Nguyên Sa… Có cảm giác người họa sĩ thông thuộc các gam màu cũng chẳng kém gì những tục ngữ, ca dao, ca từ, những bài thơ mà anh đã đọc và thuộc nằm trong những điều thú vị khi đọc tản văn của Đỗ Phấn ấy là người đọc bắt gặp một người ưa hài hước. Thi thoảng trong không khí nghiêm trang lược khảo, chỉn chu thực chứng, “ăn chơi điềm đạm” vẫn thấp thoáng nụ cười kín đáo, nhẹ nhàng, làm cho trang văn bỗng nhiên tươi tắn, lấp lánh. Ví như khi viết “Tạ ơn rau muống”, tác giả cười mà thấy chí lí “Nếu như có cuộc thi vinh danh một loài rau trên cả nước thì dứt khoát rau muống không có đối thủ. Danh hiệu “Quốc rau” không thể lọt vào tay loài rau Việt nào khác”. Nói về chiếc cầu thang, kể chuyện ngày bé, lũ trẻ thi nhau trèo lên tầng hai, ngồi trên tay vịn tụt xuống chỉ để “thi xem đũng quần đứa nào bục chỉ trước”. Bất ngờ, tác giả liên hệ “Chẳng biết những bậc thang danh vọng hình thù như thế nào nên không bao giờ mơ thấy chúng. Cho nên cũng chẳng sợ bục chỉ đũng quần” Cầu thang trong mơ. Sự hài hước, tự trào là một nét riêng Đỗ Phấn làm nên cái duyên của những bài phải nói thêm là bằng con mắt hội họa của một họa sĩ được đào tạo bài bản, Đỗ Phấn cũng đem lại cho những tản văn của mình những sắc màu riêng. Nhất là khi tác giả viết về hoa, về cây, về màu nắng và cả về việc vẽ như “Vẽ gà – thú chơi bất tận”.Điều cuối cùng là những tản văn của Đỗ Phấn thường ngắn, gọn và cô đọng. Người đọc như thể đang theo bước chân người viết “đi chơi bờ hồ”. Có thể ngắm tháp Rùa, ngắm cây cối, nghe chim hót. Rồi hứng lên, có thể làm cốc bia hơi vỉa hè, làm suất bún bung, rồi nhâm nhi tách cà phê. Mỏi thì dừng lại. Các phố xá, cửa hàng cửa hiệu Hà Nội được Đỗ Phấn giới thiệu với ta như một hướng dẫn viên du lịch lành nghề và rất am hiểu thắng cảnh cũng như tâm lí du khách. Vì thế mà các cuộc đi chơi, khám phá Hà Nội được Đỗ Phấn dẫn dắt qua những trang tản văn lúc nào cũng thú vị, hấp dẫn! Bánh trôi, bánh mật, dưa cà, chè cám, bún, xôi... Một miếng ăn ngon, bao triền kí ức’... vẫn còn nguyên nỗi xôn xao, iu ấp trong tâm thức một người đi xa. Nhân 61 năm Ngày Giải phóng Thủ đô, Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt hai tác phẩm mới về Hà Nội, đó là tiểu thuyết “Hà Nội, một thời tuổi trẻ” của tác giả Trần Văn Thụ và tập tản văn “Thương thế, ngày xưa…” của nhà văn Lê Minh Hà. “Hà Nội, một thời tuổi trẻ” là những trang viết sinh động và đầy cảm xúc về Hà Nội những năm tháng kháng chiến chống Pháp, về cuộc sống của người dân Hà Nội, đặc biệt là của sinh viên, học sinh, của thanh niên Hà Nội - những con người trẻ tuổi, thanh lịch, hào hoa xếp bút nghiên để cầm súng, chiến đấu bảo vệ Thủ đô yêu dấu trong ngày Toàn quốc kháng chiến… Qua một lăng kính khác, là cuộc đời, số phận những thanh niên Pháp buộc phải trở thành binh lính của đội quân xâm lược, tới Việt Nam, tới Hà Nội vào thời điểm khốc liệt của cuộc giao tranh. “Thương thế, ngày xưa…” gồm 19 tản văn của nhà văn Lê Minh Hà về những món ngon của Hà Nội trong kí ức của tác giả từ thời thơ bé, về một Hà Nội phố những năm 1960-70 của thế kỉ trước với “Những phố vắng từ ngày xưa, như những dòng sông đổ tới. Phố của hoa sấu êm ái một sắc xanh vàng, phố của những bầy chim se sẻ, phố của xe bò kéo than khổ ải, phố của những xe đẩy đồng dạng cửa hàng mậu dịch một thời. Xe hàng giải khát thành cao, còn thêm vạch trắng, cái ô màu sắc ít nhiều phơi phới. Xe rau cỏ chỉ một màu xanh lá sẫm sứt sẹo, ô màu xanh công nhân.” Nhà báo Linh Thoại nhận xét “Bánh trôi, bánh mật, dưa cà, chè cám, bún, xôi... Một miếng ăn ngon, bao triền kí ức’... vẫn còn nguyên nỗi xôn xao, iu ấp trong tâm thức một người đi xa. Sau Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Thạch Lam, tản văn của Lê Minh Hà góp thêm vào văn chương ẩm thực Việt Nam một giọng văn kĩ lưỡng và tinh tế, với chất nữ tính riêng, làm người đọc như được sống’ đầy đủ hơn, cảm hơn và yêu hơn từng thức quà, món ăn Việt Nam bình dị mà ngon kì diệu, ngon đến “thương nhớ khôn nguôi”... Chảy tràn trong tập sách này là một không khí hoài niệm, để người đọc giật mình nhìn lại lòng yêu của mình đối với những điều tưởng như xưa, cũ; để bùi ngùi thương, nao lòng nhớ... những cái đẹp chẳng dễ tàn phai như trí nhớ con người".

tản văn về hà nội